Hôm nay,  

Thành kiến xướng ca vô loại

10/03/202410:25:00(Xem: 1036)
Truyện lịch sử

Cheo

Nhà Trần đã khởi nghiệp với năm vị vua liên tiếp đều là những bậc anh hùng. Mặt ngoài các ngài đã lập được những chiến công hiển hách, đẩy lùi được mấy cuộc xâm lăng của lũ cường khấu phương Bắc. Mặt trong các ngài lại giỏi việc văn trị, cố gắng lo cho muôn dân được sống trong cảnh no ấm, yên vui. Thời kỳ vinh quang, thịnh vượng đó đã kéo dài gần một trăm năm. Ngoài ra, các vua Trần còn khéo léo ngoại giao với Chiêm Thành để nới rộng cương thổ về phương Nam nữa. Nhưng đến khi vua Dụ tông (Hạo) lên cầm quyền thì Đại Việt bắt đầu lâm vào cảnh suy yếu, lụn bại.
    Vua Dụ tông bất tài, bỏ bê việc nước, chơi bời xa xỉ đến nỗi quốc khố cạn kiệt. Bọn nịnh thần đã xúi giục vua tăng cao thuế má, bán tước mua quan để có tiền bạc tiêu xài. Nhiều chức tước đã được công khai định giá tương đương với số lượng thóc lúa của những nhà giàu hiến tặng cho nhà nước. Bởi tình trạng đó, hạng quan lại không tốt đã mọc lên như nấm. Trong nước nạn đói kém đã xảy ra khắp nơi. Ở đâu cũng có những đám lưu dân không đủ sức đóng thuế, phải trốn bỏ xóm làng đi chốn khác kiếm ăn.
    Hồi ấy ở hương Thổ Hoàng thuộc phủ Hưng Yên có một ông họ Nguyễn, vốn giàu có từ nhiều đời, nổi tiếng ăn ở rộng rãi, hay giúp đỡ những kẻ thất cơ lỡ vận. Ngày kia có một gã đàn ông họ Dương dắt một đứa con nhỏ tên Khương đến xin ông một việc làm. Thấy hai cha con này đều có sắc đói, ông Nguyễn không nỡ làm ngơ, lại cũng là lúc đang cần người, ông thu nhận ngay. Không may mới làm việc được mấy ngày gã họ Dương lại lâm bệnh mà mất. Chuyện xảy ra quá bất ngờ khiến ông Nguyễn hết sức bối rối. Lúc thu nhận gã họ Dương, ông chưa kịp hỏi rõ lý lịch, quê quán của gã. Thằng bé Dương Khương mới bốn năm tuổi nhỏ quá chẳng biết gì hết. Không cách nào liên lạc với thân nhân của gã Dương, ông Nguyễn đành phải lo việc chôn cất kẻ xấu số và nuôi nấng thằng bé.
    May là thằng bé Khương cũng dễ nuôi. Nó dễ bảo, biết vâng lời nên cả gia đình ông Nguyễn ai cũng thương. Càng lớn Dương Khương càng tỏ ra thông minh, lại có tài hát hay, múa giỏi. Nó cũng có thể nhại giọng, bắt chước bộ điệu của người khác y hệt khiến ai thấy phải tức cười. Chỉ tiếc một điều là chân trái của nó bị chút tật bẩm sinh, đi đứng hơi khó.
    Thời bấy giờ ở nước ta nghề hát rong, diễn trò hãy còn mới lạ. Lâu lâu lại có một đoàn hát đến tận các vùng xa xôi để trình diễn... Ông Nguyễn thấy thằng Khương có vẻ thích hợp với nghề này nên thường nói với nó:
    – Chân cháu bị chút khuyết tật, khó thích hợp với công việc nhà nông. Tuy vậy, cháu đã được thiên phú một giọng hát tốt, lại có khiếu diễn trò. Nếu theo được một gánh hát chắc cháu cũng được ấm no một đời. Nếu có dịp ta sẽ giúp cháu!
 
*
 
Mấy năm sau, có đoàn hát Bầu Lê đã đi lưu diễn qua vùng Hưng Yên. Tình cờ họ lại chọn hương Thổ Hoàng làm nơi trình diễn đầu tiên. Đã sẵn ý định giúp đỡ Khương, ông Nguyễn liền thân hành đến gặp người trưởng đoàn là Lê Hổ, ân cần mời đoàn về nhà ông tạm trú khi trình diễn quanh địa phương này. Tất nhiên ông trưởng đoàn Lê Hổ vui mừng nhận lời ngay. Người trong đoàn hát ai cũng muốn đỡ vất vả về việc tìm một nơi tạm trú. Thấy Lê Hổ dáng vẻ nho nhã, chừng ngoài bốn mươi, cũng trang lứa với mình, ông Nguyễn càng tỏ ra vui vẻ, mặn nồng hơn. Ông đã sai người nhà làm cơm thết đãi và sắp xếp chỗ nghỉ ngơi chu đáo cho cả đoàn hát. Ông lại đặc biệt mời ông Lê Hổ cùng dùng cơm với mình để chuyện trò. Lê Hổ rất cảm động, khi ngồi xuống bên mâm cơm, ông nói:
    – Không biết phước đức nào đã khiến bọn tôi gặp được một vị ân nhân quá tuyệt. Đã giúp chỗ nghỉ ngơi, còn đãi đằng ân cần nữa. Nếu không, có thể giờ này bọn tôi còn vất vả lo tìm chỗ trọ chứ đâu đã được ngồi ăn uống thoải mái thế này.
    – Đừng quan tâm chuyện đó! Quí huynh đệ đã chịu bao nhiêu khó nhọc để đem nguồn không khí vui tươi cống hiến cho đám bình dân ở tận hang cùng ngõ hẻm thế này là quí hóa lắm rồi! Tôi là dân địa phương, may sẵn có chút phương tiện nên muốn giúp quí huynh đệ dễ bề thực hiện công việc thôi, đáng kể chi! Lê huynh theo nghề này đã lâu chưa? Chẳng hay năm nay Lê huynh đã hưởng được bao nhiêu tuổi trời?
    – Thưa ông chủ, tôi năm nay 45, theo nghề này đã gần hai mươi năm!
    – Thú vị quá! Tôi cũng 45, vậy chúng ta là bạn đồng niên rồi. Mình nên coi nhau như huynh đệ đi. Hôm nào đoàn hát của Lê huynh còn diễn ở đây hay vùng phụ cận, cứ việc ở tạm nhà đệ cho thoải mái, đừng ngại! Bây giờ hai ta vừa ăn uống lai rai vừa nói chuyện nhé!
    – Còn gì hân hạnh hơn! Cám ơn Nguyễn huynh lắm!
    – Có gì mà ơn với nghĩa! Thật lòng đệ rất quí trọng cái nghề nghiệp của quí huynh đệ. Đệ còn mong được tiếp tay với quí huynh đệ nhiều hơn nữa cơ. Xem ra công việc của quí huynh đệ cũng nhọc nhằn vất vả lắm! Đệ từng nghe chuyện các đoàn hát lưu diễn phương xa thỉnh thoảng đã gặp những cảnh khốn đốn ra sao rồi! Nào gặp cảnh mưa bão bất ngờ, nào gặp cảnh trong đoàn có một vài thành viên bị bệnh thình lình! Thậm chí đôi khi có cả cảnh trong đoàn có người qua đời đột ngột! Đã khổ thế mà quí huynh đệ còn phải nghe những lời mỉa mai, khinh thị của những kẻ đạo đức giả nữa. Đệ thông cảm lắm. Đệ biết, nếu không có tấm lòng tha thiết yêu nghề quí huynh đệ đâu có chung thủy với nghề đến vậy!
    – Đa tạ trời đất! Suốt mười mấy năm theo nghề, nay đệ mới nghe được một lời đầy hiểu biết và thông cảm sâu xa với cái nghề của mình do một vị trưởng giả nói ra!
    – Đệ nói thật lòng chứ không phải nói đưa đẩy đâu! Dám hỏi, vì lẽ gì khiến Lê huynh đã chọn nghề xướng ca?
    – Để trả lời câu hỏi của Nguyễn huynh, đệ xin phép dài dòng một tí. Trước kia đệ cũng từng trải qua một thời gian sách đèn khá dài, cũng ước mơ có ngày được mang hia đội mão lắm. Chỉ tiếc là đệ không có duyên với chốn quan trường, khoa bảng, thi khoa nào rớt khoa nấy. Nhà đệ vốn nghèo, một ít ruộng đất cha mẹ để lại cũng dần bán sạch. Trong khi muốn kiếm một công việc để sống đệ tình cờ gặp một người bạn cũ đang theo cái nghề mới mẻ này. Sau khi tìm hiểu, đệ thấy nghề này cũng rất lương thiện nên đã chọn nó làm nơi gởi thân... Lê Hổ vừa cười vừa nói tiếp:
    – Không mang hia đội mão thật được thì mang hia đội mão giả cũng chẳng sao! Cái nghề mang hia đội mão giả này thế mà lương thiện thật đó! Đệ không nói bừa nói ngoa đâu! Có khi nó còn lương thiện hơn cả cái nghề của những người mang hia đội mão thật nữa kìa!
Ông Nguyễn khoái trá vỗ đùi cười ồ:
    – Cái nghề của những kẻ mang hia đội mão giả có khi còn lương thiện hơn cái nghề của những kẻ mang hia đội mão thật? Không ngờ Lê huynh đã nói một câu hay quá!
    – Nguyễn huynh thử nghĩ coi, nghề của đệ đâu có trộm cướp, giết người hay lừa dối, bóc lột ai? Điểm nào có thể gọi là thiếu lương thiện? Thật tình trên mặt nổi thiên hạ chỉ thấy bọn đệ cống hiến những trò vui mắt, những câu hát hay, những điệu múa lạ để mọi người thưởng thức cho sảng khoái tinh thần thôi, nhưng về mặt chìm công việc của bọn đệ còn ngầm chứa một ý nghĩa cao cả bổ ích cho xã hội hơn nhiều...
    – Xin Lê huynh cho nghe tiếp về ý nghĩa cao cả của nghề đội mão giả...
    – Như Nguyễn huynh đã biết, công việc của bọn đệ là diễn lại các tuồng tích xưa hay những chuyện xảy ra trong xã hội. Tuồng tích nào cũng gieo vào đầu óc người xem những ý niệm tốt hay xấu. Như tuồng Tôn Tẩn Bàng Quyên gieo vào óc người xem ý niệm kẻ gian ác phản bội như Bàng Quyên sẽ bị trời phạt, cuối cùng bị phân thây mà chết, kẻ thật thà trung hậu như Tôn Tẩn lại được trời thương, gặp nạn lớn mấy cũng có người cứu. Tuồng “Nhạc Phi” gieo vào đầu óc người xem ý niệm: Nhạc Phi một lòng trung quân ái quốc nên dù bị gian thần hãm hại đến chết, vẫn được ngàn đời sùng bái. Ngược lại Tần Cối, nhờ gian nịnh bán nước mà được giàu sang một thời, khi chết đã bị ngàn đời nguyền rủa. Các tuồng “Nhị Trưng Đuổi Tô Định”, “Ngô Quyền Đánh Giặc Nam Hán” hay “Trần Bình Trọng Thà Làm Quỉ Nước Nam Hơn Làm Vương Đất Bắc” vừa gieo vào đầu óc người xem một số kiến thức lịch sử, vừa kích thích tinh thần yêu nước, sẵn sàng chịu hi sinh vì sự sống còn của quốc gia, dân tộc v.v... Các tuồng sinh hoạt xã hội thì ngoài mục đích giúp vui còn cung cấp cho người xem bao nhiêu kinh nghiêm để khi gặp những hoàn cảnh tương tự họ sẽ xử trí khôn ngoan, hợp lý hơn... Đó chính là ý nghĩa cao quí trong công việc của các đoàn hát vậy! Rõ ràng cái nghề hát xướng cũng bổ ích cho xã hội, đất nước lắm chứ? Chính đệ nhờ biết chút chữ nghĩa đã nghiền ngẫm sưu tầm mà dựng ra những tuồng tích ấy, đâu phải dễ dàng gì? Những người đóng các vai trong tuồng cũng phải bỏ công sức luyện tập thường xuyên mới dám ra diễn cho thiên hạ xem. Cho nên khi bọn đệ bưng bát cơm của thiên hạ để ăn bọn đệ đâu có áy náy? Nói thật, đệ rất coi thường những lời ong tiếng ve châm chích cái nghề của mình.
    Ông Nguyễn gật gù tán thành:
    – Lê huynh suy nghĩ như thế là chín chắn lắm! Thế mà có người dám gán cho cái nghề này là “xướng ca vô loại”, thật quá đáng!
    – Thật ra những kẻ ấy cũng có cái lý của họ. Ban đầu cũng do cái nghề này quá mới mẻ người ta chưa hiểu được. Họ chỉ dựa theo quan niệm cũ, vẫn quen xếp nghề nghiệp của người dân làm bốn hạng là “sĩ, nông, công, thương”. Nghề hát xướng mới ra đời họ không biết xếp vào hạng nào nên cứ cho là “vô loại” thôi. Về sau lại có một số người nại thêm những sự mâu thuẫn trong nghề như một anh diễn tuồng khi này sắm vai một ông quan tốt, khi khác lại sắm vai một tên nghịch tặc. Cũng có khi hai anh em lại sắm vai hai vợ chồng. Cũng có khi người con sắm vai ông vua mà người cha lại sắm vai một ông quan hầu. Chẳng qua vì thiếu nhân sự nên các đoàn hát phải ứng biến như vậy thôi. Nhưng những kẻ khó tính đã vin vào cái cớ ấy để bôi bác nghề xướng hát có những hành vi thương luân bại lý...
    – Đệ rất đồng ý việc Lê huynh đã gạt bỏ ngoài tai những lời thị phi ấy. Nghe Lê huynh nói nghề xướng ca quá mới mẻ, chắc Lê huynh cũng rõ nó xuất hiện từ đời nào?
    – Chỉ mới gần đây thôi. Trong cuộc xâm lăng nước ta lần thứ hai của quân Mông Cổ, quân nhà Trần ta đã giết được danh tướng của chúng là Toa Đô tại chiến trường Tây Kết. Trong số tù binh quân nhà Trần bắt được có một nghệ sĩ gốc Hán tên Lý Nguyên Cát, y được Toa Đô đưa theo trong quân để giúp vui quân sĩ. Trong thời gian bị ta bắt giữ, Nguyên Cát đã khéo trổ tài ca hát, nhất là việc diễn tuồng rất lạ mắt, hấp dẫn. Trước đó ở Đại Việt chưa hề có nghề diễn tuồng. Các vương hầu trong triều thích quá bèn lần lượt bảo lãnh Nguyên Cát đưa về phủ riêng nhờ y truyền dạy nghệ thuật này cho gia nhân. Nguyên Cát ngoài tài hát, tài diễn tuồng, lại còn khá am hiểu lịch sử nên đã tự tay soạn ra những tuồng tích rất hay... Chẳng bao lâu Nguyên Cát đã giúp một số vương hầu tổ chức được những đoàn hát nhỏ để họ giúp vui cho dân chúng trong các ấp phong của họ. Khi cuộc chiến chấm dứt, dù vua Trần đã thuận trao trả số tù binh đó lại cho nhà Nguyên, Lý Nguyên Cát đã xin ở lại Đại Việt. Từ đó, nghề diễn tuồng ở đất Việt bắt đầu phát triển...
    – Rất cám ơn Lê huynh đã cho biết nhiều điều mới lạ. Giờ có một việc này đệ muốn làm phiền đến Lê huynh, hi vọng không trở ngại?
    – Nguyễn huynh đã nhờ đến, trừ việc ở ngoài tầm tay của đệ, việc gì đệ cũng sẵn lòng.
    Thế rồi ông Nguyễn đem trường hợp của Dương Khương kể ra và tỏ ý gởi gắm nó với Lê Hổ. Nghe xong, Lê Hổ mừng rỡ nói:
    – Thế thì đệ phải cám ơn Nguyễn huynh mới phải chứ. Lâu nay đệ vẫn mong tìm được một đệ tử xứng đáng để truyền cái nghề mà đệ nghĩ là rất hữu ích cho xã hội này. Gặp được một đứa trẻ thông minh có tài như Dương Khương đệ còn mong gì hơn? Xin hứa với Nguyễn huynh, đệ sẽ tận tình nâng đỡ, dạy dỗ cho cháu!
    Nghe tin Dương Khương sắp theo gánh hát Bầu Lê, một chị làm công ở nhà ông Nguyễn vội tìm gặp ông Bầu Lê và thưa:
    – Thưa ông Bầu, con có đứa cháu con người chị đã mất mới 7 tuổi, tên Hạnh. Vì nó hơi gầy nên mọi người vẫn quen gọi là Bé Gầy. Nó siêng năng, dễ bảo và cũng có một giọng hát khá hay. Chồng con không may bị bệnh kinh niên. Hiện tại con đi làm công gắng lắm cũng chỉ nuôi đủ ba miệng ăn, khó dư dả được để lo thuốc thang. Ông Bầu làm ơn cho Bé Gầy theo gánh hát được không? Con xin biếu không thôi, chỉ cần cho Bé Gầy được ấm no là đủ. Nếu được vậy cháu Hạnh sẽ đỡ khổ mà con cũng dư chút ít để chạy chữa cho chồng... Xin ông ra tay tế độ, chúng con sẽ nhớ ơn ông mãi mãi...
    Ông Nguyễn lúc ấy cũng có mặt ở đó nói:
    – Con bé ấy cũng kháu khỉnh, lanh lẹ lắm!
    Ông Bầu Lê nghe thế liền nói:
    – Chị đem cháu lại đây tôi coi thử.
    Ông Nguyễn liền bảo chị làm công về nhà dắt Bé Gầy đến gặp ông Bầu Lê. Khi cô bé được dẫn đến, ông Bầu Lê chỉ hỏi han vài điều rồi biếu chị một số tiền và nhận Bé Gầy vào gánh hát.
     Nhờ ông Lê khéo huấn luyện, hai diễn viên mới của gánh hát Bầu Lê đã sớm xuất hiện trên sân khấu và chẳng bao lâu cả hai đều trở thành những nghệ sĩ nổi bật. Đoàn hát càng ngày càng ăn khách, được mời trình diễn nhiều hơn. Ông Bầu Lê càng yêu thương, càng quyết lòng vun bồi kiến thức, chữ nghĩa cho Dương Khương với hi vọng sau này Khương sẽ tiếp nối nghiệp vụ của mình. Đi đâu Bầu Lê cũng dắt Khương theo để tiện bề dạy bảo.
    Những khi rảnh rỗi ông Bầu Lê thường hay kể chuyện xưa tích cũ cho các thành viên trong đoàn nghe. Lần ông kể đến chuyện “Lã Bất Vi Buôn Vua”, Bé Gầy đã lắng nghe từ đầu chí cuối ra vẻ thích thú lắm. Nghe chuyện xong Bé Gầy bỗng hỏi trổng:
    – Đó chỉ là chuyện xưa chứ thời nay làm gì có?
    Mọi người đều cười. Một người nói đùa:
    – Xưa đã có thì nay cũng có chứ sao lại không? Mày cũng là ca nhi, cũng đẹp không kém ca  nhi Triệu Cơ của Lã Bất Vi đấy. Biết đâu mày chẳng có cơ hội trở thành một vị thái hậu?
    Mấy người khác cũng lao nhao góp vui:
    – Biết đâu được! Nếu Bé Gầy trở thành thái hậu hẳn bọn ta được nhờ không nhiều cũng ít.
    – Nhờ cái nỗi gì? Lúc đó ngày đêm nó cứ miệt mài vui say với gã thái giám giả hiệu Lao Ái còn thì giờ đâu để nhớ tới bọn mình?
    – Ừ, cái khoản vui vẻ với Lao Ái cũng đã đời lắm!
    Tiếng cười đùa càng râm ran...
    – Đàn bà dễ được mấy tay như Triệu Cơ?
    – Cái máu dâm đã làm bà ta quên cả thể diện của một vị quốc mẫu!
    Ông Bầu Lê cũng cao hứng tiếp lời:
    – Đó chỉ là chuyện thường tình thôi. Khi có điều kiện, có quyền lực, con người dễ đâm ra hư đốn lắm! Ả Triệu Cơ chưa có gì là ghê gớm lắm đâu. Trong lịch sử nước Tàu có một vị vua đàn bà là Thánh Thần hoàng đế Võ Tắc Thiên (624– 705) mới thật ghê gớm! Khi lên làm vua bà đã 67 tuổi, nghĩa là đã già lắm. Thế mà bà đã cho tuyển chọn rất nhiều thanh niên tuấn mỹ vào cung để hôm sớm vui vẻ. Trong số đó có hai cung nam nổi tiếng là Trương Xương Tôn và Trương Dịch Chi được bà cưng chiều đến nỗi hai tên này dựa hơi dám coi các đại thần như rác. Bà đã thẳng thừng tuyên bố “Tại sao một nam hoàng đế được quyền tuyển nhiều cung nữ để hưởng lạc mà một nữ hoàng đế lại không được quyền tuyển nhiều cung nam?”. Chuyện thật lịch sử đấy!
    Không ngờ chỉ vài lời đùa cợt mua vui đỏ lại gieo vào đầu óc Bé Gầy một ước mơ mới mẻ. Nghề hát xướng cũng rèn luyện cho con người tính chất khôn ngoan, sắc sảo, bén nhạy. Mới mười bốn tuổi Bé Gầy đã như một thiếu nữ từng trải việc đời.
Một hôm ông Bầu Lê soạn được vở hát “Vương Mẫu Hiến Bàn Đào”, ông đã giao cho Bé Gầy sắm vai Tây Vương Mẫu. Đây là vở hát diễn lại bữa tiệc do bà Tây Vương Mẫu thết đãi quần tiên món “đào trường sinh” là một thứ quả ngon đặc biệt rất hiếm quí ở thượng giới. Bé Gầy đã đóng vai Vương Mẫu xuất sắc đến nỗi toàn thể khán giả lẫn người trong đoàn hát đều phải sững sờ. Ông Bầu Lê đã dẫn đoàn hát đi diễn nhiều nơi và ở đâu vở Vương Mẫu Hiến Bàn Đào do Bé Gầy giữ vai Vương Mẫu cũng là vở ăn khách, được khán giả tán thưởng nhất. Từ đó nhiều người cứ gọi đùa Bé Gầy là Vương Mẫu. Bé Gầy tinh khôn, sắc sảo tất nhiên ả cũng nhận biết cái giá trị thực tế của mình. Càng ngày ả càng trở nên kiêu hãnh, cao đạo và những mộng ước thầm kín, cao xa trong lòng ả ngày càng nẩy nở. Dần dần ả đâm ra ghét cái tên Bé Gầy mình đang dùng. Một hôm Bé Gầy nói với ông Bầu Lê:
    – Thưa ông, ngày xưa cháu còn bé, vì gầy ốm nên mọi người gọi cháu là Bé Gầy. Nay cháu đã khôn lớn, không còn gầy ốm, cái tên Bé Gầy không còn thích hợp với cháu nữa. Xin ông đặt cho cháu một cái tên khác được không?
    Ông Bầu Lê cười:
    – Bé Gầy là tên gọi cũ và nó cũng thành nghệ danh của chảu luôn. Thật ra nghệ danh tức là cái tên đặt ra để gọi khi hành nghề có thể không cần phải tương ứng với bản thân người nghệ sĩ. Cái tên không quan trọng mà quan trọng là ở cái tài năng. Tuy thế, cháu đã không muốn dùng cái tên ấy nữa thì cứ đổi, khó gì? Ông nhớ hễ lần nào đoàn mình diễn tuồng Vương Mẫu Hiến Bàn Đào cháu đều sắm vai Vương Mẫu, luôn được khán giả hoan nghênh tặng tiền thưởng nhiều nhất. Chính vai diễn này đã giúp cháu nổi tiếng. Vậy ông chọn cho cháu cái tên Vương Mẫu cháu bằng lòng không?
    Bé Gầy tươi cười hớn hở:
    – Đội ơn ông, cháu không mong gì hơn nữa!
    – Vậy, ngay chiều nay ta sẽ tổ chức một bữa tiệc nhỏ trong đoàn để chính thức đổi nghệ danh cho cháu là xong.
    Kể từ đó tiếng tăm nghệ sĩ Vương Mẫu ngày càng lừng lẫy trong giới hát xướng. Càng ngày Vương Mẫu càng lộ rõ nét thiên phú của một giai nhân. Hai kiện tướng Vương Mẫu và Dương Khương đã giúp đoàn hát Bầu Lê càng ngày càng vang danh khắp chốn...
    Một thời gian sau, ông Bầu Lê đã tác hợp cho Dương Khương và Vương Mẫu thành vợ chồng. Chừng một năm sau, ông Bầu Lê giao đoàn hát lại cho Dương Khương điều khiển rồi trở về quê cũ dưỡng lão.
    Dù ông Bầu Lê đã từ giã đoàn hát, Dương Khương vẫn giữ tên đoàn như cũ. Đoàn hát Bầu Lê vẫn mỗi ngày mỗi tiến triển thêm. Danh tiếng của nó đã lọt đến tai các quan trong triều. Vua Dụ tông nghe tiếng liền cho đòi đoàn về Thăng Long trình diễn cho các quan và dân chúng ở kinh kỳ thưởng thức. Theo lệnh của vua Dụ tông, bộ Lễ đã cử một viên quan tên Lê Nhậm lo việc liên lạc, tiếp xúc và sắp xếp nơi ăn chốn ở cũng như địa điểm trình diễn cho đoàn hát.
    Sau lần trình diễn ngay tại hí trường kinh đô, đoàn hát Bầu Lê đã được phép lần lượt trình diễn tại bốn địa điểm khác ở kinh thành. Trong suốt dịp này, cả đoàn hát Bầu Lê đều nỗ lực thi thố tài nghệ để giữ tiếng. Vương Mẫu, với sắc đẹp trời cho, với lối diễn xuất thần sầu đã làm khán giả chốn kinh thành xem đến mê mệt, ai cũng nức lòng ái mộ. Đặc biệt có một vị thân vương, bào huynh của vua là Cung Túc vương Nguyên Dục đã liên tục tham dự không bỏ qua một lần diễn nào. Cung Túc vương cũng bỏ ra một số tiền khá lớn để thưởng cho đoàn.
    Qua gần một tháng tích cực trình diễn ở Thăng Long, đoàn Bầu Lê đã thu được một khoản tài chánh đáng kể. Các diễn viên của đoàn còn được một dịp may hiếm có là thăm viếng, thưởng ngoạn những thắng cảnh có tiếng ở kinh đô. Khi đoàn hát sắp sửa rời Thăng Long bất ngờ Lê Nhậm dẫn một viên nội thị của Cung Túc vương đến gặp Dương Khương bảo có việc quan trọng cần bàn. Dương Khương ngạc nhiên mời Lê Nhậm và viên nội thị vào phòng khách để nói chuyện. Sau khi trà nước đã được dọn ra, Dương Khương mở đầu:
    – Xin mời nhị vị quan lớn dùng trà. Thưa, đã có thể bắt đầu câu chuyện chưa? Có điều gì xin nhị vị cứ dạy bảo, tiểu nhân sẵn sàng lắng nghe.
    Viên nội thị nói như phân trần:
    – Ông Dương đã từng trình diễn nhiều tuồng tích về các triều đại xưa chắc cũng đã hiểu rõ tình trạng có rất nhiều người tuy cũng mang danh là “ông quan” nhưng thật sự chỉ là hạng thiên lôi, cấp trên bảo gì làm nấy. Chính ta cũng chỉ là một viên quan như thế. Hôm nay ta đến đây để thi hành một sứ mạng mà chính ta cũng không thấy thoải mái khi mở miệng, mong rằng khi nghe ta nói ông Dương không thắc mắc...
    Dương Khương hơi biến sắc nhưng gắng giữ vẻ bình tĩnh đáp:
    – Tiểu nhân hiểu nhiệm vụ khó khăn của quan lớn, xin quan lớn cứ thẳng thắn chỉ dạy...
    – Ông Dương đã hiểu như thế ta cũng đỡ ngại... Số là sau khi xem nàng Vương Mẫu trình diễn, Cung Túc vương rất hài lòng, thích thú. Vì thế, ngài muốn cưới nàng làm thứ phi nên sai ta đến lo việc này. Để đền bù lại sự thiệt thòi của ông Dương, ngài sẽ tặng một số vàng và đề nghị triều đình ban cho ông Dương một chức quan. Như thế, ông Dương có thể cưới một người vợ khác tùy ý muốn và sẽ sống một cuộc đời nhàn nhã, con cháu ông sẽ có cơ hội tiến thân hơn. Ta nghĩ đây cũng là một điều tốt. Ông Dương nên quyết định sớm để ta về báo lại với ngài.
    Nghe viên nội thị nói xong Dương Khương toát mồ hôi, choáng váng mặt mày. Rõ ràng là một tai họa lớn đã ập đến với y! Những ngày sống gần gũi ông Bầu Lê, Khương đã từng được ông kể cho nghe bao nhiêu chuyện xưa tích cũ, Khương cũng đã từng trình diễn bao nhiêu tuồng tích, kinh nghiệm cho Khương biết rằng mình không thể nào cưỡng lại chuyện này được. Nếu không khéo xử sự Khương có thể mất mạng như chơi.
    Trong khi Dương Khương chưa biết trả lời viên nội thị thế nào thì Lê Nhậm tiếp lời:
    – Hiến Từ thái hậu yêu thương Cung Túc vương không bờ bến, lúc nảo ngài cũng sẵn sàng chiều ý vương. Khi vương đã muốn điều gì thì không ai ngăn cản nổi. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ, chớ để phạm lỗi lầm mà phải ôm hận!
    Khương càng hiểu vấn đề nhưng vẫn gượng chống chế:
    – Bẩm nhị vị quan lớn, vợ của tiểu nhân giờ đã mang thai hai tháng, biết làm sao?
    Viên nội thị cười:
    – Ta cũng đã đoán biết điều đó và đã tâu với thái hậu nhưng ngài bảo không sao. Chỉ cần Cung Túc vương vui lòng là được rồi! Nếu con ông Dương trở thành con của Cung Túc vương tương lai nó sẽ có địa vị lớn, sẽ sung sướng hơn nhiều, chẳng lẽ ông Dương không muốn?
    Thấy Dương Khương lộ vẻ sợ hãi, tuyệt vọng, viên nội thị tiếp:
    – Việc này không còn gì để bàn cãi nữa. Đây là quyết định của thái hậu. Nếu ông Dương thương bà Vương Mẫu thì hãy khuyên lơn, phân tích sự việc để bà ấy khỏi lo buồn, khỏi sợ hãi là đủ. Được như thế thì tương lai của chính ông Dương cũng tốt đẹp hơn nhiều. Từ bây giờ ông Dương bắt đầu lo việc đó là vừa, ngày mai chúng ta sẽ trở lại...
    Tiễn chân hai viên quan xong Dương Khương thẫn thờ trở lại phòng khách.     Những người trong đoàn hát cũng lập tức theo nhau kéo vào. Vương Mẫu lộ vẻ nôn nóng hỏi:
    – Họ nói chuyện gì có vẻ nghiêm trọng thế?
    Dương Khương buồn bã nói với mọi người:
    – Chuyện này chỉ liên can đến vợ chồng chúng tôi thôi. Xin anh chị em thông cảm lui ra cho chúng tôi tiện bàn bạc.
    Mọi người nghe nói thế đều lui ra hết. Vương Mẫu thúc giục chồng:
    – Người ta đi hết rồi còn chờ chi nữa mà chưa chịu nói?
    Dương Khương thở dài:
    – Tai họa đã đến với chúng ta rồi đó!
    – Chuyện gì thế? Chuyện gì mà tai họa?
    Vương Mẫu nóng nảy hỏi dồn. Dương Khương buồn bã đem đầu đuôi câu chuyện đối đáp giữa đôi bên kể lại cho vợ nghe. Bất ngờ Vương Mẫu cất tiếng cười khanh khách:
    – Đáng gì chuyện nhỏ ấy mà phải lo sợ? Phải biết cách biến họa thành phúc chứ! Chàng không nhớ những chuyện cụ Bầu Lê đã kể trước kia sao? Nào gã lái buôn Lã Bất Vi đã cố tìm cách để đưa cái bào thai của y với ả ca nhi Triệu Cơ vào cung nhà Tần! Nào lão Tể tướng Hoàng Yết đã cố tìm cách để gởi cái bào thai của y với nàng Lý Yên vào cung nước Sở! Những hành động mờ ám ấy đều nhằm mưu cầu phú quí cho bản thân, cho dòng họ những kẻ đó cả. Những việc đó rất khó khăn, nguy hiểm có thể chết người mà người ta vẫn liều lẫn làm cho được! Còn ở đây trời đã trao cơ hội tốt cho mình, khỏi mắc phải tội lỗi gì với ai mà tự nhiên con cháu mình sẽ được hưởng cuộc sống sang quí chàng lại không muốn hay sao?
    Dương Khương kêu lên:
    – Nàng nghĩ sao vậy? Ta thật tình chỉ muốn để chút âm đức lại cho con cháu chứ không muốn dối gian lừa phỉnh người khác để tìm phú quí đâu. Nàng không thấy cái quả báo đã đến ngay với những kẻ có dã tâm làm những việc làm gian ác kia sao? Chính giọt máu của Lã Bất Vi khi trở thành Tần Thủy Hoàng nó đã quay lại ép Lã Bất Vi phải uống thuốc độc mà chết và tịch thu toàn khối tài sản to lớn của y! Còn giọt máu của Hoàng Yết khi trở thành Sở U vương cũng là khi thân xác của Hoàng Yết bị băm nhỏ cho vịt ăn vì tội phản vua hại nước! Đó không phải là trời đất đã không dung tha những kẻ có tâm địa gian ác ngay trước mắt sao?
    Vương Mẫu vẫn hăng hái thuyết phục chồng:
    – Những kẻ đó bị trời diệt vì họ chủ tâm cướp đoạt ngai vàng, chủ tâm phản bội, tiêu diệt dòng tộc của chính người đã cưu mang, tin tưởng mình. Còn ta có mưu tính, có ý định làm hại ai đâu? Chẳng qua là cơ hội tốt đó tự nhiên đến với ta, không phải là ý trời sao? Thiếp xin nói nhỏ, ai cũng biết chuyện Dụ hoàng (1) mắc bệnh không thể có con, nếu con mình trở thành con của Cung Túc vương tức là dòng chính của hoàng tộc, cơ hội ngai vàng của nhà Trần lọt vào tay con mình biết đâu chẳng đến? Đáng trách chăng là chàng đã quá thật thà đần độn đến nỗi khai báo với họ thiếp đã có thai hai tháng. Nhưng không sao đâu, chàng cứ yên chí!
    Thấy thái độ vui mừng, hăm hở của vợ, Dương Khương ngao ngán thở dài:
    – Thôi, bây giờ ta chỉ còn biết phó mặc mọi chuyện cho trời. Nàng muốn làm sao tùy ý. Chỉ mong nàng để ta được an thân là đủ.
    Vương Mẫu tỏ vẻ đắc ý:
    – Ít nhất chàng cũng phải biết điều như thế chứ! Đó là cách khôn ngoan nhất để giữ lấy mạng sống. Sau này nểu trở thành vương phi, thiếp nhất định không để chàng phải chịu thiệt thòi đâu!
 
*
 
Vua Trần Minh Tông tuy có nhiều con trai nhưng hai người con dòng chính (con của Lệ Thánh hoàng hậu) là Nguyên Dục và Hạo lại sinh hơi muộn. Khi thấy mình đã cao tuổi mà con dòng chính chưa sinh, vua Minh tông đã lập hoàng tử trưởng (dòng thứ) tên Vượng làm thái tử rồi sau đó truyền ngôi tức vua Hiến tông rồi lên làm Thái thượng hoàng. Lệ Thánh hoàng hậu được tôn thành Hiến Từ thái hậu. Bất ngờ năm 1341 vua Hiến tông lại băng. Hoàng tử Nguyên Dục là anh nhưng càng lớn càng lộ vẻ ngờ nghệch, càn rỡ nên Thượng hoàng không ưa mà lập hoàng tử Hạo làm thái tử rồi truyền ngôi tức là vua Dụ tông. Hoàng hậu Lệ Thánh thấy Nguyên Dục chỉ vì tật nguyền mà bị tước hết quyền lợi của một đích tử nên thương lắm. Nguyên Dục muốn gì bà cũng chiều, xin gì bà cũng cho. Về sau Nguyên Dục được phong tước Cung Túc vương.
    Sau những lần xem đoàn hát Bầu Lê trình diễn, Cung Túc vương đã tỏ ra mê say nàng Vương Mẫu và đòi cưới nàng cho được. Tất nhiên triều đình phải chiều ý vương. Thế là Vương Mẫu trở thành thứ phi của Cung Túc vương. Dương Khương bị mất vợ quá buồn rầu, chán nản bèn giải tán đoàn hát rồi tìm chốn ẩn thân. Khi biết được tin này Vương Mẫu chỉ cười: “Mặc anh ta. Khôn thì nhờ, ngu ráng chịu!”
    Về với Cung Túc vương chưa bao lâu Vương Mẫu đã sinh được một đứa con trai kháu khỉnh, khỏe mạnh. Cung Túc vương mừng quá, chính thức nhận đứa bé làm con và đặt tên là Trần Nhật Lễ. Nhật Lễ đã được Cung Túc vương và Vương Mẫu cưng quí như báu vật. Vì vậy mà cậu bé này càng lớn càng ham chơi, lười nhác, chẳng chịu học hành gì cả.
    Mười bốn năm sau thì Cung Túc vương lâm bệnh nặng. Hiến Từ thái hậu đã đến thăm khi vương đang hấp hối, bà hỏi:
    – Nếu không may bệnh chẳng qua khỏi, con có điều gì căn dặn mẹ không?
    Cung Túc vương rưng rưng nước mắt thưa:
    – Người hoàng tộc không mấy ai thích Nhật Lễ nhưng con coi Nhật Lễ như máu thịt của con. Xin mẫu hậu coi Nhật Lễ là “đích tôn” được không?
    Hiến Từ thái hậu xúc động khóc oà:
    – Thì Nhật Lễ là đích tôn của mẹ chứ còn ai nữa? Mẹ hứa.
    Cung Túc vương lộ vẻ sung sướng thốt lên “Đa tạ mẫu hậu” rồi nhắm mắt qua đời. Từ đó Hiến Từ thái hậu cũng cưng chiều Nhật Lễ như đã cưng chiều Cung Túc vương trước kia.
    Vào giữa năm Kỷ Dậu 1369, Dụ hoàng lâm bệnh nặng. Vốn không có con và cũng chưa lập ai làm thái tử nên gặp khi khẩn cấp Dụ hoàng đã truyền chỉ lập Trần Nhật Lễ lên nối ngôi. Đa số các vương hầu, các đại thần đều nghĩ Nhật Lễ không phải hoàng tộc chính thống nên đều muốn lập Trần Phủ là con thứ hai của vua Minh tông đã lớn tuổi và nổi tiếng là người hiền. Thế nhưng Hiến Từ thái hậu quá thương Cung Túc vương nên bà đã quyết liệt ủng hộ việc tôn lập Nhật Lễ. Cuối cùng Nhật Lễ đã được đăng quang lấy niên hiệu là Đại Định. Sau đó Nhật Lễ đã tôn Hiến Từ thái hậu thành Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu.
    Vương Mẫu thấy con mình đã được làm vua cũng muốn được tôn làm hoàng thái phi nhưng bị triều đình, nhất là cánh tôn thất đã phản đối vì danh nghĩa không thuận. Bà rất phẫn uất vì vấn đề này. Ngoài ra, từ khi được đưa về vương phủ, ngày đêm bà an phận lo việc hầu hạ Cung Túc vương đã quen nếp. Nay vương đã khuất bóng, việc hầu hạ không còn nữa. Ngày ngày rảnh rỗi quá, bà đâu biết phải làm gì cho hết thời gian trống rỗng vô định này? Lại đang độ hồi xuân, tự nhiên bị lâm vào cái cảnh “no cơm ấm cật...” đầy nghiệt ngã, Vương Mẫu chỉ còn biết ngồi ôn chuyện Triệu Cơ, chuyện Võ Tắc Thiên hay nhớ lại người chồng cũ Dương Khương. Lúc này bà mới thấy thương người chồng thật thà, trung hậu ấy. Tại sao hồi đó mình đã đối xử tàn nhẫn với chàng như thế? Nhất định phải làm một cái gì để chuộc tội với chàng!
    Rồi một hôm Vương Mẫu đã nghĩ ra được một điều... Phải thực hiện việc này mới được! Đây là một việc không khó khăn gì đối với bà cả. Thành công việc này, biết đâu bà lại chẳng có cơ may tạo được một thời gian hạnh phúc huy hoàng như Võ Tắc Thiên? Nhất cử lưỡng tiện!
    Thế rồi hôm sau Vương Mẫu quyết định gặp Nhật Lễ. Sau khi kể lại hết thân thế, gốc gác họ Dương cho Nhật Lễ nghe, bà kết luận:
    – Hoàng nhi không biết là đế vương đều có số mạng cả sao? Tại sao Cung Túc vương lại nhất quyết đòi cưới mẹ cho được dù biết mẹ đã có thai với Dương lang? Tại sao khi sắp lìa trần vương lại trối trăng với thái hậu phải coi hoàng nhi là đích tôn? Tại sao Dụ hoàng lại không có con nối dõi rồi lại băng sớm? Tại sao thái hậu lại quyết liệt ủng hộ việc tôn hoàng nhi lên ngôi? Tất cả đều do trời sắp xếp sẵn hết cả đấy! Rõ ràng là trời đã cố ý đem giang sơn của họ Trần trao cho họ Dương chứ gì nữa? Trời đã giúp tất nhiên trời đã ra lệnh cho quỉ thần luôn theo bên mình để phù trợ, bảo vệ hoàng nhi. Hoàng nhi muốn làm gì thì làm, không ai có thể ngăn cản được. Hiện tại trong triều có một số có vẻ không muốn phục tùng mẹ con ta, hoàng nhi phải ra oai trị tội chúng để làm gương! Đồng thời phải lựa chọn các viên quan có uy tín và có lòng ủng hộ mẹ con ta cho giữ những chức vụ quan trọng trong triều để dễ sai khiến. Khi đã có một lực lượng trung thành vững mạnh trong tay, thấy mống nào tỏ ra ngang bướng không tuân phục ta cứ diệt trừ là xong. Con người sinh ra quí ở chỗ là gây dựng được sự vinh sang, tôn quí cho tổ tiên, dòng dõi của mình phải không? Dòng dõi của hoàng nhi chính là họ Dương chứ đâu phải họ Trần? Hoàng nhi phải tìm về cái gốc của mình mới khỏi bị thiên hạ chê cười. Nên cho người đi tìm rước người cha chính thức của hoàng nhi là Dương Khương về sớm, ban tặng cho người một chức quan để người có danh phận sẵn. Như thế sau này hoàng nhi có tôn người lên Thái thượng hoàng cũng không bị coi là quá đường đột. Mẹ có được bấy nhiêu kinh nghiệm, hoàng nhi hãy xét lấy mà hành động.
    – Đa tạ mẫu phi, hài nhi sẽ làm theo lời dạy của mẫu phi!
    Vốn chưa hề được ai dạy dỗ về phép tắc trị dân, chỉ có chút kinh nghiệm sử dụng quyền lực của một ông vua trên sân khấu do Vương Mẫu dạy, Nhật Lễ bắt đầu lựa chọn những người mà ông ta ưng ý để trao chức tước. Thật ra từ những năm cuối đời Dụ hoàng, vua đã dung túng một số nịnh thần lộng hành quá nên số trung thần phần lớn đã bị bãi chức hoặc tự nguyện từ quan cả. Số còn lại phần nhiều chỉ biết ngậm miệng, trên sai bảo gì cứ cúi đầu làm đó cho yên thân. Nhóm nịnh thần, đứng đầu là Trần Nhật Hạch đã ra sức đáp ứng những nhu cầu do Nhật Lễ đòi hỏi khiến ông ta có cảm tưởng như mình đã có một lực lượng trung thành vững mạnh như ý.
    Bọn Nhật Hạch đã khởi đầu việc hăm dọa, răn đe những vị đại thần trước đó đã dám phản đối việc tôn Vương Mẫu lên ngôi vị hoàng thái phi. Họ cũng tìm được Dương Khương để đưa về triều. Khương đã được Nhật Lễ phong chức Lệnh thư gia. Những động thái này đã làm dấy lên sự nghi ngờ, bất an trong lòng các vương hầu và các đại thần. Nhật Lễ lại học đòi vua Dụ tông hoang dâm, ăn chơi phung phí không ai can ngăn nổi. Chính Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu cũng phải thở dài tỏ ý hối hận khi lập y làm vua. Không may lời than thở của ngài lại lọt đến tai bọn Nhật Hạch. Sợ bị Thái hoàng thái hậu trừng phạt, Nhật Lễ đã ngầm cho người đầu độc ngài.
    Thấy Nhật Lễ vô đạo đến thế, Thái tể Trần Nguyên Trác cùng con trai Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa cùng một nhóm tôn thất gồm 18 người đã bất ngờ đột nhập cung vua định giết Nhật Lễ. Không may Nhật Lễ lại phát giác được nên trèo tường trốn ra ngoài mất. Lùng kiếm Nhật Lễ không ra, mọi người giải tán về nhà. Rạng sáng hôm sau Nhật Lễ trở vào cung rồi cho lính đi bắt những người đã bạo động hôm trước đem chém hết.
    Cung Định vương Trần Phủ, Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán và công chúa Thiên Ninh sợ hãi vội trốn khỏi kinh thành chạy ra các trấn để tránh nạn. Khi Cung Tuyên vương Trần Kính vừa ra khỏi Thăng Long thì gặp Thiếu úy Trần Ngô Lang từ hương Mễ Sở đang về thành. Trần Ngô Lang đón vương lại hỏi:
    – Vương gia đi đâu mà có vẻ gấp gáp vậy?
    Cung Tuyên vương đáp:
    – Trong thành đang có biến. Nhật Lễ phản lại nhà Trần rồi. Nó đã giết Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu, lại hại luôn cả cha con Thái tể Nguyên Trác và 18 vị tôn thất. Nhiều thân vương đã chạy ra ngoài lánh nạn. Ta cũng chạy ra trấn Đà Giang đây. Ông là người ngoài chắc Nhật Lễ không nghi ngờ gì, gắng tìm cách để cứu xã tắc được không?
    – Trời ơi, Nhật Lễ đã ngang ngược tàn bạo đến thế sao? Vương gia ra ngoài nên gấp kêu gọi các trấn dấy binh kéo về trị tội kẻ phản bội mới được! Bên trong cứ để mặc lão thần tùy cơ tính liệu và sẵn sàng làm nội ứng cho vương gia.
    Sau khi Cung Tuyên vương đi, Trần Ngô Lang liền vào thành bái yết Nhật Lễ. Lúc ấy Nhật Lễ cũng đang bàn việc với hai viên quan Bùi Khoan và Trần Nhật Hạch. Thấy Trần Ngô Lang, Nhật Lễ vui mừng bảo:
    – Bọn Nguyên Trác vừa làm phản hôm qua đã bị trẫm trị tội. Nay bọn Cung Định, Cung Tuyên, Chương Túc, Thiên Ninh cũng đã trốn ra ngoài. Nhật Hạch khuyên trẫm cho người truy tầm tiêu diệt chúng gấp để trừ hậu hoạn nhưng chưa biết sai ai đi. Lão tướng gánh vác việc đó giúp trẫm được chăng?
    Bùi Khoan đốc thêm:
    – Bệ hạ giao việc đó cho Trần Thiếu úy là đúng rồi. Trần Thiếu úy đã lão luyện trên chiến trường, nhiều mưu lược, rất có uy tín với quân sĩ, lo gì không sớm diệt được bọn Cung Định?
    Trần Ngô Lang tâu:
    – Tâu bệ hạ, hạ thần nghĩ bọn Cung Định chạy trốn ra ngoài chẳng qua vì quá sợ mà thôi chứ chưa chắc đã dám làm gì. Bệ hạ đã được truyền ngôi một cách quang minh chính đại, kẻ nào dám theo bọn họ làm phản? Vả lại ta cũng chưa biết rõ bọn họ đã trốn đến những nơi nào. Nay nếu ta dấy quân rầm rộ quá sớm sẽ làm kinh động cả thiên hạ thật không nên. Cứ từ từ dò xem bọn họ đến đâu đã rồi sẽ dùng lời lẽ ngọt ngào để dụ về, việc gì khác hãy tính sau. Khi đã ra chỉ dụ mà bọn họ không chịu nghe ta sẽ cử binh đánh dẹp cũng chưa muộn.
    Nhật Lễ khen:
    – Khanh tính như vậy phải lắm. Trẫm giao toàn bộ việc đối phó với bọn phản loạn đó cho khanh. Cứ tùy tiện mà làm, chớ phụ lòng trông cậy của trẫm.
    Được giao trọng trách này Trần Ngô Lang vui mừng tâu:
    – Hạ thần xin tuân mệnh!
    Trần Ngô Lang vốn là một lão tướng có nhiều uy tín, được nhiều người nể phục. Ông bắt đầu chỉnh đốn lại các đội ngũ trong quân đội tại triều theo ý mình. Nhật Lễ thấy vậy rất yên tâm, tiếp tục việc ăn chơi như cũ. Mấy ngày sau triều đình nhận được tin các thân vương đang qui tụ ở trấn Đà Giang và tôn Cung Định vương Trần Phủ làm thủ lãnh để khởi binh. Nhật Lễ liền thúc Trần Ngô Lang cử binh đi đánh dẹp. Trần Ngô Lang tuân lệnh, lần lượt phái ba đạo quân tinh nhuệ ra trận nhưng lần nào Lang cũng bí mật dặn viên chỉ huy chớ đánh đấm mà hãy đóng binh ở lại để giúp Cung Định vương. Sau ba phen xuất quân mà chẳng có tin báo tiệp, cũng chẳng có một tên quân nào trở về, Nhật Lễ lo lắng hỏi Trần Ngô Lang:
    – Tại sao đạo quân nào ra đi rồi cũng bặt tăm luôn thế nhỉ? Bây giờ ở kinh thành chỉ còn mấy đội quân lão nhược nếu xảy ra chuyện bất trắc biết làm sao?
    – Muôn tâu, thần cũng chẳng hiểu sao lại có tình trạng đó. Xin bệ hạ cho thần đi một chuyến mới rõ được.
    – Không được. Khanh là người trẫm trông cậy, khanh đi rồi lỡ xảy ra chuyện trẫm biết cậy nhờ ai?
    Thế rồi Nhật Lễ ra lệnh cho Trần Ngô Lang lo tuyển mộ thêm quân để phòng thủ kinh thành. Nhưng Trần Ngô Lang tuyển mộ chưa được bao nhiêu đã có tin Cung Định vương đang kéo quân về Thăng Long. Nhật Lễ hoảng hốt ra lệnh cho Trần Ngô Lang đem quân chống cự. Trần Ngô Lang tỏ vẻ lo lắng bàn:
    – Thế lực của Cung Định vương nay đã quá mạnh mà tinh binh của ta lại đi hết cả rồi, số quân lão nhược còn lại và một ít quân mới tuyển luyện tập chưa kỹ làm sao chống cự nổi?
    Nhật Lễ nghe Lang bàn hoảng sợ hỏi:
    – Thế bây giờ khanh bảo trẫm phải làm sao?
    – Tâu, giờ bệ hạ chỉ còn cách cởi hoàng bào, mặc đồ thường dẫn quần thần ra đón Cung Định vương dâng sớ xin nhường ngôi may ra giữ được tính mạng.
    Nhật Lễ bất đắc dĩ phải nghe theo, dẫn Trần Ngô Lang và các quan lớn nhỏ ra đón Cung Định vương tại Đông Bộ Đầu xin nhường ngôi. Cung Định vương giáng Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức công và cho giam y ở phường Giang Khẩu. Tiếp đó Cung Định vương về Thăng Long lên ngôi, tự xưng là Nghĩa hoàng tức là vua Nghệ tông.
    Khi thấy các tướng đã được sai đi đánh giặc trước trở về đến chào mừng cảm tạ Trần Ngô Lang, Nhật Lễ mới biết được Trần Ngô Lang đã làm nội ứng cho Cung Định vương. Quá giận, Nhật Lễ bèn lập kế nói với Trần Ngô Lang:
    – Ta có một hũ vàng chôn trong cung, hãy về lấy đem cho ta. Lại đây ta chỉ chỗ giấu cho.
    Trần Ngô Lang ngỡ thật lại gần Nhật Lễ quì xuống để nghe y dặn, Nhật Lễ bất ngờ chộp cổ Lang bóp đến tắt thở. Người cháu của Lang là Trần Thế Đổ tâu việc này tâu lên vua. Nghĩa hoàng giận quá sai quân đánh chết Nhật Lễ cùng đứa con trai của y đem chôn ở núi Đại Mông.
    Sau đó, Nghĩa hoàng truy tặng Trần Ngô Lang chức Nhập nội Tư mã, ban tên thụy là Trung Mẫn á vương.
    Khi nghe được tin dữ đã xảy ra cho Nhật Lễ, Vương Mẫu sợ quá liền dắt một thị nữ thân tín lẻn trốn khỏi cung điện. Vì Vương Mẫu vốn là đàn bà yếu đuối, lại xuất thân từ con hát nên các quan rất coi thường, chẳng ai thèm để ý. Ra khỏi kinh thành Vương Mẫu cải trang thành một bà già, nàng thị nữ cải trang thành một gã dân quê, dối xưng là hai mẹ con nhà nghèo dắt nhau kiếm nơi sinh sống. Hai mẹ con giả này cứ khỏe thì đi, mệt thì kiếm chỗ trọ nghỉ ngơi, đi miết về phương Nam. Lần hồi họ cũng tới được biên giới hai nước Chiêm –  Việt.
    Cũng thời gian đó, Dương Khương cũng thất vọng, chán nản bỏ chức rời khỏi Thăng Long đi đâu không ai biết.
    Khi đã vào được đất Chiêm, Vương Mẫu liền tìm đến viên tướng chỉ huy quân Chiêm đóng tại biên giới tự thú mình là Vương Mẫu, mẹ của cựu vương Đại Định, xin được yết kiến Chiêm vương để khai báo việc cơ mật. Viên tướng Chiêm mừng như bắt được vàng, vội thân hành đưa Vương Mẫu thẳng về Đồ Bàn.
 
*
 
Từ khi Chế Bồng Nga lên ngôi, ông đã có ý muốn khôi phục lại những phần đất đã bị Đại Việt chiếm đoạt trước đó. Nhưng nước Chiêm vốn nhỏ yếu hơn Đại Việt, trong quá khứ đã bị Đại Việt đánh bại nhiều lần nên Chiêm vương rất dè dặt. Để thăm dò phản ứng của Đại Việt, Chiêm vương đã ngầm cho quân đội biên phòng giả dạng giặc cướp quấy phá nhiều khu vực gần biên giới của Đại Việt vào các năm 1361, 1362, 1365, 1366. Lần nào quân Chiêm cũng bị quân Việt chống trả kịch liệt. Lạ một điều là không lần nào chúng bị quân Việt truy kích trả đũa mãnh liệt như trước kia. Đoán biết quân Việt đã suy yếu, không dám xa rời biên giới, năm 1367 Chiêm vương sai Mục Bà Ma sang Đại Việt đòi lại đất Hóa Châu. Sự khiêu khích này đã khiến Dụ hoàng nổi giận. Ngài liền sai hai tướng Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình dấy quân chinh phạt. Tháng 5 năm 1368, quân Việt đã rầm rộ tiến vào đất Chiêm. Nhưng chỉ mới tiến đến Chiêm Động (Quảng Nam) đã bị quân Chiêm lập kế phục kích sẵn đánh tan tành. Tướng Trần Thế Hưng bị bắt sống. Đỗ Tử Bình chỉ huy đội hậu quân hoảng vía rút chạy thoát thân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân Chiêm đã thắng quân Việt một trận quá vẻ vang. Chiêm vương hào hứng nói với các tướng:
    – Các ngươi thấy chưa? Với trận thắng oanh liệt này, ta đã bắt đầu rửa mặt rửa mày cho dân tộc Chiêm rồi đấy! Các ngươi hãy cùng ta phải cố gắng hơn nữa, phải tạo những chiến thắng hiển hách hơn, đến bao giờ kẻ thù chịu khuất phục mới thôi. Ta biết rồi đây sớm muộn quân Việt cũng sẽ kéo sang phục thù. Các ngươi hãy cùng ta ra sức rèn luyện quân sĩ thật hùng mạnh, sắc bén để có thể đập gẫy mọi cuộc phục thù của quân giặc mới được!
    Đã nói là làm. Từ đó Chiêm vương ngày đêm ráo riết lo việc lập kế hoạch phòng thủ, huấn luyện quân đội, chuẩn bị lương thực để sẵn sàng nghênh đón quân Việt.
    Nhưng rồi một năm, hai năm trôi qua vẫn không thấy quân Việt sang. Chiêm vương lại đâm ra nóng ruột, nghi ngờ, hỏi các tướng:
    – Hiện giờ quân ta đã thật sự hùng mạnh, thừa sức để đương đầu với giặc, chẳng lẽ cứ ngồi nhà chờ giặc đến? Hay ta cứ vượt biên giới tiến vào đất Việt một phen xem sao?
    Phần đông các quan Chiêm đã nếm mùi thất bại trước Đại Việt nên rất lo ngại trước ý tưởng táo bạo của Chiêm vương. Sau một hồi bàn luận, viên Thủ tướng La Ngai thưa:
    – Xin Đại vương xét kỹ. Trận Chiêm Động quân Việt đã bị thất bại nặng chính vì chúng quá chủ quan, khinh địch. Chúng đâu ngờ nước Chiêm ta đã có một vị anh hùng đầy mưu lược xuất hiện! Tuy thế, nước Việt vốn đất rộng dân đông, nhiều nhân tài, sông núi lại hiểm trở khó lường. Thái từ Hoằng Tháo của Nam Hán, danh tướng Hầu Nhân Bảo của Đại Tống, các danh tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, Lý Hằng của Mông Cổ đều phải bỏ mạng tại vùng đất hiểm trở ấy. Nếu muốn tiến vào đất Việt ta phải cẩn thận lắm mới được!
    Các tướng lãnh nghe Thủ tướng La Ngai bàn thế đều tỏ vẻ lo ngại. Chiêm vương thấy vậy cũng đâm ra do dự, chưa quyết... Mấy hôm sau, trong lúc Chiêm vương đang họp mặt quần thần thì một thị vệ vào trình có một viên biên quan dẫn Vương Mẫu, mẹ của cựu vương Đại Định từ An Nam sang đầu thú xin vào yết kiến. Chiêm vương nghe báo vui mừng phán:
    – Cho phép dẫn nó vào hầu.
    Một viên thị vệ cầm loa hướng ra ngoài lớn tiếng lập lại lệnh ba lần nữa. Liền đó, viên biên quan từ ngoài thân dẫn Vương Mẫu đến trước bệ rồng, cả hai đồng loạt quì xuống lạy và hô “Đại vương vạn tuế! Đại vương vạn tuế!”. Tiếp đó, viên biên quan tâu:
    – Tâu Đại vương, người đàn bà An Nam đã vào hầu, xin Đại vương quyết định.
    Chiêm vương phán:
    – Được rồi, cho khanh lui ra. Người đàn bà hãy quì đó để ta hỏi chuyện.
    Viên biên quan cáo lui xong, Chiêm vương hỏi người đàn bà:
    – Bà kia là ai? Xin yết kiến ta có việc gì? Cho phép thành thật nói ra, không được dối trá!
    Người đàn bà bình tĩnh tâu:
    – Tâu Đại vương, thần thiếp là Vương Mẫu, vợ góa của Cung Túc vương và cũng là mẹ của vua Đại Định Trần Nhật Lễ của nước An Nam vừa mới bị bọn loạn thần Trần Phủ sát hại. Thần thiếp biết được Đại vương là bậc anh hùng trùm đời, giàu tinh thần nghĩa hiệp, thấy chuyện bất bình sẽ không bỏ qua, vì thế thần thiếp mới lặn lội đến đây cầu xin Đại vương giúp đỡ. Nếu Đại vương ra tay diệt bọn phản loạn Trần Phủ, chắc chắn dân An Nam sẽ nhớ ơn Đại vương mãi mãi.
    Chiêm vương Chế Bồng Nga bật cười:
    – Bà này cũng khéo ăn nói nhỉ. Nhưng bà lầm rồi. An Nam là chư hầu của nước Tàu, nếu An Nam có loạn thì nước Tàu có nhiệm vụ giúp An Nam lập lại trật tự chứ mắc mớ gì tới nước Chiêm ta? Vả lại, nước Chiêm ta vốn nhỏ yếu hơn An Nam, làm sao can thiệp được vụ này?
    Vương Mẫu đập trán xuống đất bình bịch ba lần rồi thưa:
    – Muôn tâu, hiện tại nước Tàu vẫn còn nạn Minh-Hán phân tranh, chưa chắc đã rảnh tay để lo chuyện nước ngoài. Xin Đại vương hiểu cho, thần thiếp tìm đến quí quốc không phải chỉ vì việc trả thù cho đứa con của thần thiếp mà còn vì quí quốc nữa. Thần thiếp biết quí quốc cũng rất muốn lấy lại những vùng đất cũ đã bị An Nam chiếm đoạt trước đây. Thần thiếp trộm nghĩ với tài ba, uy vũ của Đại vương, với khí thế đang lên của nước Chiêm, hễ Đại vương ra tay là An Nam sẽ bị đè bẹp. Binh lực của An Nam hiện nay rất yếu kém vì thiếu tướng giỏi, thiếu luyện tập. Triều đình An Nam lại đang chia rẽ. Chính bây giờ phe Trần Phủ đang lo thanh toán những thành phần chống đối khiến lòng người rất hoang mang. Nếu quí quốc bỏ lỡ cơ hội trời cho này thì thật quá uổng.
    Chiêm vương gật đầu:
    – Cám ơn Vương Mẫu, ngươi nói cũng có lý. Ta sẽ xét lại vấn đề này. Nếu đúng như thế ngươi sẽ được trọng thưởng. Cho phẻp ngươi lui ra. Ta sẽ cung cấp nơi ăn chốn ở cho thầy trò ngươi.
    – Đội ơn Đại vương! Đại vương vạn tuế!
 
*
 
Chỉ vì quá tin vào thuyết “đế vương có mạng”, lại tham lam, ích kỷ, muốn việc chóng thành nên mẹ con Vương Mẫu đã hành động nông nỗi, quên để ý đến yếu tố lòng người. Đó là lý do khiến mẹ con bà đã sớm chuốc lấy sự thất bại. Vương Mẫu hối hận lắm. Nay Vương Mẫu đã trình bày khá chính xác về tình hình của Đại Việt đồng thời cũng khéo léo khích động lòng tự tôn, ý chí quật cường của Chiêm vương khiến Chiêm vương rất vừa lòng. Sau khi khai thác kỹ những tin tức quí báu do Vương Mẫu cung cấp, Chiêm vương tuyên bố với quần thần:
    – Nay nước Việt đã thật sự suy yếu. Vua thì bất tài, quan quân thì hèn nhát, đúng là cơ hội để nước Chiêm ta rửa thù! Trẫm quyết định xuất quân đánh nước Việt.
    Một vị tướng khác tâu:
    – Quyết định của Đại vương thật vô cùng sáng suốt. Chuyến này ta ra quân ắt phải thắng. Hạ thần chỉ xin góp một ý kiến nhỏ. Người Việt bản chất quật cường rất khó cai trị. Nước Tàu khổng lồ đến thế kia, đã cai trị chúng cả ngàn năm mà chúng vẫn vùng dậy đánh bật ra được để giành lại độc lập. Nước ta vốn bé nhỏ ít người không thể nào cai trị chúng lâu dài đâu! Chỉ cần lấy lại phần đất cũ của ta là đủ. Thần xin đề nghị, ta vốn có thế mạnh về thủy quân, nên tận dụng đường thủy để dễ bề tiến thoái càng tốt. Khi vào đất Việt, chỉ tịch thu của cải, bắt người, đốt phá tài sản để gây khó khăn cho chúng rồi rút về chứ chẳng nên ở lại cai trị. Vài lời thiển cận xin Đại vương cứu xét.
    Chiêm vương khen:
    – Ý kiến của khanh hay đấy. Trẫm sẽ xét kỹ.
    Tháng 5 năm 1371, Chiêm vương Chế Bồng Nga thân hành chỉ huy đại quân theo đường thủy tiến vào cửa Đại An. Quân Việt phòng thủ ở đó quá bất ngờ trước sức mạnh của quân Chiêm, đã tan tác chạy trốn. Quân Chiêm thừa thắng tiến thẳng lên Thăng Long, tiến đến đâu quân Việt bỏ chạy đến đó. Khi quân Chiêm đến Thăng Long, Nghĩa hoàng hoảng sợ cùng triều đình lên thuyền sang Đông Ngàn để tránh nạn. Quân Chiêm vào thành tha hồ cướp của, đốt phá các cung điện và nhà cửa của dân, bắt theo nhiều đàn bà trẻ và các thiếu nữ rồi rút về.
    Về đến Đồ Bàn, Chiêm vương cho tổ chức tiệc ăn mừng lớn. Số đàn bà trẻ và thiếu nữ Việt bị bắt đã trở thành phần thưởng cho các quan quân Chiêm có công. Vương Mẫu cũng được thưởng nhiều vàng bạc, châu báu. Chiêm vương đã trực tiếp tuyên dương:
    – Chính nhờ người đàn bà này nước Chiêm ta mới có được buổi tiệc khải hoàn hôm nay. Giờ thì ta đã biết rõ nước Việt đã thật sự quá suy yếu. Nó đã trở thành miếng mồi ngon để chúng ta đi ăn hàng khi cần. Từ nay nước Việt phải biết tay ta!
Năm 1376 quân Chiêm lại vào cướp Hóa Châu, cũng bắt đi một số thanh niên thiếu nữ đang dự Hội Xuân ở đó.
    Quá bực bội, đầu năm 1377 vua Trần Duệ tông đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành để trà thù. Nhưng khi tiến đến Đồ Bàn quân Việt lại bị Chiêm vương dùng kế dụ vào ổ phục kích đánh tan tành. Vua Trần Duệ tông cùng nhiều tướng lãnh đã bị tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc con của Nghĩa hoàng bị quân Chiêm bắt, sau đó đã đầu hàng.
    Được đà, tháng bảy cùng năm (1377) quân Chiêm lại tiến ra cướp phá Thăng Long lần thứ hai. Quân Việt cũng thua chạy tan tác. Nhưng lần này trên đường rút về quân Chiêm gặp phải một trận bão lớn, bị chìm thuyền chết đuối rất nhiều.
    Mùa hạ năm 1378 người Chiêm đưa Ngự Câu vương Trần Húc vào cướp phủ Nghệ An, tiếm xưng vị hiệu để chiêu dụ dân chúng, được rất nhiều người theo. Sau đó quân Chiêm lại đánh vào sông Đại Hoàng. Vua sai Đỗ Tử Bình đem quân đánh chận nhưng Tử Bình lại thua luôn. Thế là quân Chiêm lại tiến đánh Thăng Long, vào thành cướp phá lần thứ ba.
    Vào các năm 1380, 1382 và 1383 quân Chiêm lại sang cướp nữa nhưng những lần này quân Việt có chuẩn bị kỹ hơn nên quân Chiêm không được thành công lắm. Do sự hòa giải của vua nhà Minh và cũng để có thì giờ củng cố thêm sức mạnh, người Chiêm đã tạm ngừng cướp phá nước Việt một thời gian.
    Tháng 11 năm 1389 Chiêm vương Chế Bồng Nga cùng Thủ tướng La Nga lại đem quân vào Thanh Hóa, Thượng hoàng Nghệ tông sai Lê Quí Ly đem quân chống giữ. Nhưng quân Việt lại bị thua nặng, tướng chỉ huy quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí bị bắt, ngót 70 tướng khác đã bị tử trận. Lê Quí Ly hoảng hốt giao quyền chỉ huy lại cho tì tướng Phạm Khả Vĩnh rồi trốn về trước. Có lẽ Lê Quý Ly đã thấy rõ trước khí thế của giặc, ở lại cố chống cũng chết mà rút quân lại có thể bị giặc truy kích càng nguy hiểm hơn. May có tướng Nguyễn Đa Phương nhanh trí bàn với Phạm Khả Vĩnh giương cờ nổi trống hư trương thanh thế làm giặc chùn chân rồi đợi đêm xuống lén rút quân về an toàn. Thấy Lê Quí Ly đại bại, triều đình phải tạm dời ra bến Bình Than để tránh giặc.
    Tháng 12/1389, Thượng hoàng sai tướng Trần Khát Chân đem quân chống quân Chiêm. Khi tiễn Trần Khát Chân ra trận, vua tôi đều rơi lệ như Yên vương tiễn Kinh Kha sang Tần ngày xưa. Trần Khát Chân đến Hoàng giang (Nam Định) thì gặp giặc. Thấy đánh nhau ở đó bất lợi, Khát Chân rút quân về sông Hải Triều (sông Luộc) để lập phòng tuyến.
    Đầu tháng 2/1390 Chiêm vương tự đem hơn 100 chiến thuyền đến quan sát tình hình quân Việt tại sông Hải Triều. Không may Chiêm vương lại có viên tiểu thần Ba Lậu Kê phạm tội bị ông trừng phạt, đã chạy sang hàng quân nhà Trần. Tên này đã chỉ cho quân nhà Trần biết chiếc thuyền Chiêm vương đang ngự. Tướng Trần Khát Chân liền cho quân tập trung hỏa lực bắn vào chiếc thuyền đó. Không cách nào chịu nổi trận mưa đạn của quân Việt, Chiêm vương đã bị tử trận. Thấy vua đã bị giết, quân Chiêm tan tác bỏ chạy, Thủ tướng La Ngai liệu thế không xong phải rút quân về nước. Từ đó nước Đại Việt được thoát hẳn mối họa Chiêm Thành!
    Không ngờ cuộc đời của vị vua anh hùng nước Chiêm từng ngang dọc một thời lại bị kết thúc bi thảm chỉ vì một hành động thấp hèn của một tên tiểu nhân phản chủ!
Một điều không ngờ khác, chỉ vì chút tham vọng quyền uy không đạt được của một ca nhi tầm thường lại gây nên một thảm họa to lớn cho cả một dân tộc ngót hai thập kỷ (1371– 1390)!
    Cái gương mẹ con Vương Mẫu và Dương Nhật Lễ đã làm cho triều đại nhà Trần nghiêng ngả, điêu đứng suýt sụp đổ đã làm cho người đời sau phải cảnh giác. Vì vậy, sau khi đã dựng nghiệp, nhà Hậu Lê đã cấm ngặt những người có lý lịch liên hệ đến nghề xướng ca, tuyệt đối không được thi cử để ra làm quan. Lệnh này đã tô đậm cái thành kiến khinh thị đối với nghề ca hát trong quần chúng.
    Mãi đến năm 1634, sau khi một nhân vật kỳ tài là Đào Duy Từ, vốn là con trai của một kép hát, đã giúp chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên lập được những công tích phi thường trong việc gây dựng bờ cõi ở phương Nam thiành công rực rỡ thì cái thành kiến “xướng ca vô loại” mới tự tan loảng dần (2).
 
Ngô Viết Trọng
 
Chú thích:

(1) Dụ hoàng là danh hiệu do vua Trần Hạo tự xưng, Dụ tông là danh hiệu triều đình tôn xưng để thờ tại miếu thờ khi vua đã mất nên cũng còn gọi là miếu hiệu.
 
(2) Đào Duy Từ người Thanh Hóa, mồ côi cha từ lúc lên năm. Cha ông là Đào Tá Hán vốn là một kép hát. Bà mẹ ông họ Vũ đã gắng nuôi ông ăn học. Thấy ông tỏ ra quá xuất sắc, mẹ ông lại muốn ông đi thi. Vì ngại phạm luật cấm nên bà ngầm khai dối ông thành họ Vũ tức là họ của bà. Ông đã thi và đậu Á nguyên trong khoa thi hương năm Quí Tị 1593. Nhưng sau đó có người ganh ghét đã tố cáo việc gian dối của ông. Thế là ông bị xóa tên, tước bằng, lột áo mũ, đuổi về. Trong bước đường cùng, ông đã trốn vào miền Nam rồi giúp chúa Nguyễn dựng được nghiệp lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở cái xứ sở u Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus…
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.