Hôm nay,  

Bữa nhậu chiều

12/10/202312:05:00(Xem: 3295)
Truyện

bua nhau

May muốn gặp anh em chú bác cô dì một lần. Cũng đã hơn bốn mươi lăm năm, hơn bốn mươi lăm năm anh em thất tán, kẻ xiêu lạc ngõ này, người xiêu lạc ngõ kia. Nghĩa là qua cuộc đổi đời. Ngày đó May còn là một cô nữ sinh mười sáu tuổi, tóc thề thả chấm ngang vai, áo dài trắng thướt tha, ôm tập vở đến trường nữ trung học. Bỗng nhiên, như cuốn phim đang chiếu trong rạp, khán giả đang xem ngon lành, hấp dẫn, bị cắt đứt. Khán giả có la ó phản đối bao nhiêu rồi cũng thôi. May nghỉ học. Và từ đó anh em thất tán nhau. Người ta thường truyền miệng, ngày ấy là "ngày đứt phim".
    Từ đó, người theo bên này, kẻ theo bên kia, giằng xé, nhìn nhau bằng đôi mắt hình viên đạn, dè chừng, coi như không thân thiện, có kẻ còn chơi nhau sát ván. Những ganh ghét, thù oán cá nhân đều được đem ra tung hứng, đến nỗi, anh em, bà con trở nên hận thù, hay ít ra cũng xa cách.
    Có người kể rằng, ngày trước có ông thầy đuổi học một học trò ngỗ nghịch, chọc phá, gây ồn ào, náo loạn trong lớp. Anh ta chòng ghẹo nữ sinh, nói tục, xé ngang tà áo dài trắng của một cô, lộ ra một mảng ngực trắng phau, núm vú đỏ hồng. Cô nữ sinh chỉ biết khóc, co ro trong một xó. Ông thầy tức quá, bèn bợp tai đứa học trò ngỗ nghịch kia và lên văn phòng kể tội hắn với thầy hiệu trưởng. Đề nghị đuổi học. Đứa học trò tức quá, về nhà có dịp móc nối với phía bên kia, liền "nhảy núi".
    Đến ngày đứt phim, hắn trở về với nón tai bèo, khẩu AK, đến nhà ông thầy, kêu thấy ra bắn giữa sân, ông thầy chết miệng còn há hốc, chưa kịp nhận ra đứa học trò cũ, cũng không hiểu mình bị tội gì. Thầy chết, máu loang tung tóe, khiến ai cũng le lưỡi, sợ hãi.
    Nhưng ngày đó, đã qua lâu quá rồi. Mấy ông cậu, ông chú, ông bác "ngày đứt phim" còn trẻ măng, nay đã theo ông bà ông vải gần hết rồi. Chỉ còn đám trẻ loi choi, cuối cùng cũng tụ hội tại Mỹ. Nên May muốn mời mấy anh, chị, em, tới nhà mình chơi, lai rai chút đỉnh với ông xã. Ông chồng May cũng thích "lai rai" nên đồng ý ngay, cái điều May đề nghị.
    – Anh à, anh em bà con chú bác cô dì của em ở đây có khoảng đâu mười người, nhà mình có khu sân sau, chiều mát, em làm chút đồ ăn, kêu mấy người tới chơi, lai rai với anh, nhen.
    Hoạt thì nghe May nói, nghĩ ngay tới mấy chai bia Hein mà từ lâu, May không cho anh uống, nàng vẫn dè chừng, có phần dọa dẫm, anh cẩn thận đó, trong bia đường nhiều lắm, có nguy cơ cao đường đó nghe anh. Nay, nhân dịp này, vừa chìu lòng May, vừa được uống bia thỏa thích, dại gì không đồng ý.
    – Anh OK em à, anh chị em em lâu rồi không gặp, gặp lại ở đây thì vui, em tha hồ tâm sự.
    – Vậy nhe anh. Em sẽ làm bánh cuốn ram quê em để đãi khách, để nhớ lại những ngày nhỏ, bà nội thường làm cho tụi em ăn.
    Bánh ram cuốn là một món ăn dân dã, chỉ có từ Nha Trang trở ra Quảng Nam, Quảng Ngãi. Tuy gọi là ram, nhưng mỗi nơi có lối làm riêng. Món ram thơm ngon, giòn rụm quấn bánh tráng rau sống, cũng làm nhiều người nhớ về thời thơ ấu ở quê, mẹ thường làm cho ăn. May điện thoại cho những người thân, hẹn, nói với từng người, đúng 4 giờ chiều nghe anh, chị. Giờ này trời đã mát, ngồi ngoài sân nhậu mới vui.
    Bữa tiệc nhậu toàn là anh em chú bác cô cậu dì, những người "ngày đứt phim" mới mười sáu, mười bảy, bây giờ ai cũng đã lên trên hàng sáu, có người đã ngồi sui, có người đã có cháu nội, ngoại. Thời gian qua choáng ngợp cuộc đời.
    Anh Dinh mang đến môt hộp lê Hàn quốc, những trái lê màu vàng ươm. Anh chị Thụy thì đem một thùng táo tàu. Và nhiều anh chị em khác nữa. Riêng anh Duy, chỉ một mình anh tới, không có người đàn bà đi theo, kệ nệ vác thùng bia Hein 24 chai, lên cầu thang lầu 2 của căn nhà. Khi lên tới nơi, khuôn mặt đỏ hồng của Duy đã thấm mồ hôi, thở dốc. Duy là người đến trễ nhất, ai cũng đã ngồi vô bàn, đã tâm sự hỏi thăm sức khỏe nhau, đã cụng gần hết một chai Ken. Thấy Duy mở cửa bước vào, ai cũng đứng bật lên, tiếp đón. May đon đả nhất:
    –  Anh Duy, tìm không ra nhà sao đến trễ vậy anh?
    Duy con ông chú, nhưng lớn tuổi hơn May, nên nàng vẫn gọi là anh. Duy cười, nụ cười của bốn mươi lăm năm về trước. Nụ cười của chàng thanh niên tươi rói hai mươi tuổi.
    – Chào các anh chị. Thật vạn hạnh gặp gỡ anh chị ở đây.
    Anh đến bắt tay từng người, ai anh cũng cầm tay anh thật lâu. Có người lên tiếng nói (kháy):
    – Anh Duy cũng qua Mỹ ha? Nhớ năm xưa, ngày xa lơ xa lắc ấy. Hồi đó anh Duy "cách mạng" dữ lắm mà.
    Duy cười, nụ cười có chút e thẹn, ngượng ngùng. Chàng cố biện hộ cho mình:
    – Chuyện cũ rồi mà! Có một nhà văn Nga đã nói, năm hai mươi tuổi ai không theo cộng sản là người không có quả tim. Năm bốn mươi tuổi, ai còn theo cộng sản là người không có cái đầu.
    Câu nói có vẻ triết lý sâu xa.
    Ai cũng nhớ ngày đó, Duy đã hoạt động rất hăng say trong đoàn thanh niên sinh viên Sài Gòn. Đến ngày đứt phim, anh về quê nhận lãnh một chức vụ trong ban thanh niên quận ủy. Anh hăng say hoạt động, chạy bên này, sang bên kia, kêu gọi, đẩy mạnh mọi công tác, đảng, đoàn. Thế mà nay cũng đã sang Mỹ, cùng chung với những người cùng lứa tuổi anh, đã vượt biên sống chết trên biển đông.
    Khi Duy an tọa xong, ai cũng nghĩ hôm nay là bữa tiệc vui, sum họp gia đình trên hơn bốn mươi bốn năm. Anh em, bên này, bên kia mới gặp nhau, ngày đó, kẻ đỏ, người vàng, người xanh chia cắt, hận thù nhau. Bây giờ thì đã xa lắc rồi, cái chiến thắng sau cùng là sự họp mặt ở Mỹ. Nay ai cũng lên chức nội, ngoại. Nghĩa là đã thành người lớn tuổi, trên dưới hàng sáu, hàng bảy rồi chứ ít gì đâu.
    Mà người lớn tuổi thì phải rộng lượng, bao la.
    Anh Dinh là người có số tuổi lớn nhất trong đám, lại là có vai vế cao, anh là con người bác cả.
    – Dô đi anh em, bốn mươi bốn năm với bao thăng trầm, anh em mình mới gặp nhau, nên vui lên đi chứ! Dô, dô, dô!
    Mấy người đàn bà cũng dô, nhưng dô nước lọc trong chai hay nước cam, còn mấy anh đàn ông thì ai cũng cầm chai Hein lên tu ngon lành, hết ba mươi phần trăm. Lúc qua chai thứ ba, Duy bắt đầu đỏ mặt. Anh giọng trầm ngâm, tâm sự:
    – Kể lại hồi đó, bây giờ em mới thấy mình ngu. Mười tám tuổi, đang là sinh viên mà theo lệnh ông già đem tiếp tế thuốc men, tiền bạc cho phía bên kia ở tận Long An. Ông già đóng sẵn một thùng cạc tông, biểu mang xuống chợ Long An giao cho người phía bên kia, gặp nhau ngoài phía hông chợ, nói mật khẩu rồi giao hàng. Còn có cả xấp tiền đô nữa, trao tay cho bên đó. Nghĩ mà lạnh người.
    Ông già của Duy tức là chú Chín, là chú, là cậu, những người có mặt ở đây. Ông là tay kinh tài cho phía bên kia. Ông đã làm nhiều phi vụ như Duy vừa kể, sai thằng con trai mới lớn tiếp tế tiền bạc, gạo thóc, thuốc men đến tận các tỉnh miền tây. Chuyến đi nào cũng trót lọt. Duy, khi thì đóng vai người nông dân, người xe ôm, người bộ hành, người bán hàng rong... đủ mọi vai diễn, mục đích là tiếp tế thành công. Lúc đó Duy nghĩ cha mình là người giàu lý tưởng, vì mục đích giải phóng dân tộc mà mạo hiểm làm những chuyện phi thường. Không phi thường sao được, nếu chuyện mà đổ bể, sẽ bị tù cả đám, sẽ mọt gông ở Côn Đảo hay ra pháp trường bị xử bắn là cái chắc.
    Nhưng sau này đứt phim, chú Chín mới thấy được phía bên kia. Nó hiện diện trên cuộc sống với những tư thù tư oán. Người bên kia tìm giết, sát hại, đưa đi tập trung cải tạo những người thua cuộc. Và chú cũng bị cho ra rìa vì gia đình có ông cha là người Việt gốc Hoa. Chú không được tin dùng. Những người bà con trong dòng họ, người người lục tục kéo nhau ra khỏi nước, dù có chết. Tại sao vậy cà? Chú suy nghĩ suốt hai mươi năm, đến năm thứ hai mươi mốt chú vượt biên. Chú đem hết con cái qua Mỹ, bỏ hết gia tài ra để đóng một chiếc thuyền ra khơi. Sống ở Mỹ được mười năm thì chú mất.
    Lại tiếp tục cụng ly, lai rai ba sợi. Với anh Dinh, anh Thụy, anh Duy, bia Hein, nói theo thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, 40 chai đồ bỏ. Bây giờ mỗi người đã cạn đến chai thứ sáu, sáu lần bốn hai bốn. Đúng là một thùng Hein Hoạt đã mua, đã dự tính, thế là quá đủ. Nhưng anh đã tính sai. Có thể nói các anh ở đây là "hũ chìm". Mỗi người cưa 6 chai mà thấy tỉnh queo. Hoạt thì khoan thai, yên tâm uống vì anh là chủ nhà, say xỉn thì vào giường nằm ngủ có sao, đâu có lái xe mà sợ cảnh sát hốt.
    Anh thấy nên tiếp tục cuộc vui. Anh ra lấy thùng bia của Duy đem tới. Hoạt đến tủ lạnh lấy đá, bỏ vào một cái sô rồi đem cây gắp đá đến bàn. Những chiếc ly được mang ra, tiếp tục, mỗi người một ly cối. Hoạt nói:
    – Mời quý anh tiếp tục. Còn thùng bia này của anh Duy đem đến, không được lạnh nên mình uống đá. Không say không về.
    Khi đến chai thứ bảy, có lẽ nỗi sợ hãi về lái xe bị cảnh sát chộp, cũng ít đi, các anh em dạn dĩ hơn, coi trời bằng vung hơn, dù ai cũng biết rằng, cảnh sát kêu dừng lại khi đang lái xe, qua máy kiểm nghiệm, nồng độ rượu lên trên số quy định là đời tàn. Nhưng bây giờ đang vô cơ, sá gì phương hướng nữa.
    Bàn tiệc chỉ có Duy là nhỏ tuổi hơn, nhưng anh đã trải qua những thăng trầm, bầm giập của cuộc đời, cuộc sống, từ một thanh niên lớn lên, yêu nước tràn đầy trong hồn. Anh đã qua một đời vợ, với hai đứa con trai, nhưng bây giờ không còn gì, người vợ đã ly dị, trước ly dị giả để qua Mỹ, nay trở thành ly dị thiệt. Người vợ cũ không chịu được sự lọc lừa đó. Chàng ôm nỗi buồn đau vào lòng, gặm nhấm theo tháng ngày, một mình một chợ ở Mỹ. Ngày anh qua, đến phi trường Los, vào phòng vệ sinh rửa mặt, thấy giấy vệ sinh lau, chùi, ê hề, không như ở quê nhà, vào toilet, tìm một miếng giấy không ra, phải mua. Nên anh nhận thức ngay, đây là một nơi đáng sống.
    Chàng uống cho quên đời, hôm nay, chàng là em út, nhưng cuộc đời khuấy động trong Duy nhiều uẩn khúc, nên Duy nói nhiều. Nói cũng là một chia sẻ, để làm vơi đi. Đến chai thứ mười hai thì Duy gục xuống. Anh Dinh, anh Thụy, chị Anh, anh chị Quang, lục tục ra về, còn Duy xỉn tại chỗ. May nói với Hoạt:
    – Anh cứ để anh Duy nằm đây. Chút nữa, em dọn dẹp xong, lái xe chở ảnh về.
    Hoạt cũng trong cơn lơ tơ mơ. Chàng biết chàng không thể lái xe được, nên ậm ừ:
    – Em tính thế cũng được. Em đưa anh Duy về hộ anh.

 

– Trần Yên Hòa

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
Người ta nói: “Hết quan là hoàn dân” và chỉ mong có vậy, đừng hết quan hoàn…tàn phế” thì buồn quá! Hôm nay lão Dụng đã tự ngồi dậy được. Lão không nhớ là mình đã nằm như khúc gỗ mục, bất động bao lâu rồi! “Mới đó mà đã lại sang một năm mới. Thời gian bây giờ có nghĩa gì đâu chứ!”: Lão lẩm nhẩm một mình!...
Trong một căn phòng motel nhỏ sạch sẽ gọn gàng chăn ga gối trắng, trên giường phủ một tấm trải lớn có thể dùng làm chăn đắp màu lông chuột, một người phụ nữ nằm khóc, và người đàn ông đang ra sức dỗ dành. Cô gái mếu máo “Anh à, anh X đã bỏ đi rồi!”...
Những ngày cuối tháng tư quân trường Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung vẫn đang cắm trại, chồng tôi chưa về, nhưng trước khi đi anh đã bảo tôi ở nhà có gì thì bám theo cha mẹ và các em để đùm bọc lẫn nhau. Gia đình cha mẹ tôi ở gần nên hai nhà như một...
Tôi bồn chồn liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi lại nhìn chừng về phía hội trường đầy ấp hơi người và ồn ào tiếng cười nói. Đã hơn tám giờ mà chương trình vẫn chưa bắt đầu. Chưa bao giờ tôi thấy khó chịu về chuyện giờ giấc như lúc nầy. Thấp thoáng trong đám đông, tôi thấy Khánh đang chạy đôn đáo chừng như kiểm điểm sự có mặt của một số khách “nồng cốt”, để bắt đầu chương trình...
Tiếng hát Cẩm Vân trong trẻo, vút cao, nghèn nghẹn đầy xúc cảm. Tôi buông thả Mi7 và chuyển vội La thứ như chưa muốn ngừng những âm vang cuối. Nốt dứt đoạn ngân dài, tất cả lặng yên, bên ngoài có tiếng gió đêm Sài Gòn vội về, bất chợt...
Tố Như tiên sinh đã để lại cho hậu thế câu thơ tháng ba đẹp như tranh trong truyện Kiều, “cỏ non xanh tận chân trời/ cành lê trắng điểm một vài bông hoa…” Đọc xong câu thơ thì nửa số người đọc đã nhắm mắt lại để hình dung ra bức tranh mùa xuân vẽ bằng thơ; với hai màu xanh, trắng vào tay hoạ sĩ, chúng ta có bức tranh chiêm ngưỡng bằng mắt, nhưng với nhà thơ chúng ta có bức tranh trong trí tưởng tuyệt vời… Tôi nói với ông bạn mê thơ đang ngồi chung bàn cà phê mà mọi người đang nói chuyện thời sự nên không phù hợp với một sáng tháng ba trời mát lạnh vì mưa đêm qua rả rích tới sáng, anh em rủ nhau ra ngoài trời ngồi uống cà phê cho mấy ông bạn còn hút thuốc được thỏa mãn thú tính. Thế là những ông đã giã từ làn khói mỏng bị những ông còn hút thuốc giận cho, rồi cãi nhau.
Đầu tháng Tư, hoa tulip đã vội gõ cửa mọi nhà sau giấc đông miên ngắn ngủi. Mùa Xuân cũng theo hoa tulip trở về, mở ra khúc giao mùa. Trong gió Xuân đầu mùa còn lạnh, ngoài xa trên cánh đồng rừng quê muôn vạn búp non đang nẩy lộc đâm chồi. Cỏ non, cây rừng già vẫn mạnh mẽ vươn lên tràn đầy sức sống. Đàn cá hồi thức giấc bắt đầu vượt thác trở lại quê hương nguồn cội...
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học.
Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng...
Những chuyến xe ngập ngừng, chậm chạp lăn trên con đường gập ghềnh để chuyên chở đoàn người đi thăm cha, anh, em, con, chồng ở khắp nơi trong những trại tù, nơi mà lớp người mới gọi là "Trại Học Tập Cải Tạo" nghe ngược ngạo, chua chát nhiều đắng cay. Từ Quốc Lộ 1, phải đi khoảng chừng 2 cây số, trên một con đường mòn, xuyên qua rừng cây gỗ quý cẩm lai là đến trại tù cải tạo Hàm Tân...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.