Hôm nay,  

Chuyện sư tử con và bê con

07/05/202312:58:00(Xem: 3595)
Ngụ ngôn

nguyencau

Tại cánh đồng rộng mênh mông ở Phi Châu có một con sử tử con mới lọt lòng mẹ bảy ngày. Mẹ nó trong một chuyến đi săn bị bầy linh cẩu cắn chết và không bao giờ quay trở lại. Sư tử con đói kêu la thảm thiết, chập chững đi chẳng kể phương hướng để tìm sự sống. Nó may mắn lạc vào một đàn bò. Một con bò mẹ đang nằm dài dưới đất cho bê con bú. Sư tử con cũng chẳng biết đây là bò hay sư tử, do bản năng sinh tồn nó tìm tới và và chui vào tìm sữa nơi  bò mẹ. Bò mẹ hiền từ thấy sư tử còn bé, vô hại cho nên cũng cho bú mà chẳng phản ứng gì. Nửa năm sau, sư tử con lớn rất nhanh. Nó chơi đùa với con bê như anh em vậy. Nhưng do sự phát triển của cơ thể, tự nhiên nó thèm và cần một loại đồ ăn khác với sữa mẹ. Nó nói với con bê:
     – Này anh bê, vài ngày nữa tôi phải ra đi và tìm cách gia nhập bầy đàn để có đồ ăn. Chỉ một năm nữa thôi, tôi cũng phải tự đi săn. Khi đó tôi buộc lòng phải  ăn thịt anh và mẹ bò.
     Con bê ngạc nhiên hỏi:
     – Tại sao vậy?
     Sư tử con đáp:
     – Lý do rất đơn giản là tôi không thể ăn cỏ như anh mà phải ăn thịt sống, ăn thịt tất cả các loài động vật khác. Bây giờ tôi với anh còn là anh em, nhưng vài tháng nữa anh sẽ là đồ ăn của tôi.
     Nghe vậy con bê khóc rồi nói:
     – Thôi anh đi đi, đi xa và nhớ đừng ăn thịt tôi và mẹ bò nhé.
     Cũng ngay hôm đó, tại một vườn chơi trẻ em, hai cậu bé đang vui chơi với nhau. Nhưng một cậu là công dân của một siêu cường. Còn cậu kia là công dân của một nước nhỏ yếu kém. Một ngày kia, cậu bé siêu cường nói với cậu bé nhược tiểu:
     – Này bạn ơi, nếu tôi chỉ là một công dân bình thường thì bạn và tôi có thể chơi với nhau suốt đời như những người bạn tốt. Nhưng nếu tôi là lãnh đạo của đất nước tôi thì câu chuyện sẽ khác đi.
     Cậu bé nhược tiểu hỏi:
     – Khác thế nào?
     Cậu bé siêu cường đáp:
     – Lúc đó tôi có thể tấn công, xâm chiếm đất nước bạn, có thể lật đổ chính quyền của bạn, nước bạn có thể trở thành tay sai hay chư hầu của nước tôi.
     Cậu bé nhược tiểu ngạc nhiên hỏi:
     – Tại sao lại như vậy?
     Cậu bé siêu cường đáp:
     – Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Vì đất nước tôi là siêu cường vô địch, không ai có thể chống lại cho nên chúng tôi muốn làm gì thì làm, giống như sư tử muốn ăn thịt loài bò lúc nào cũng được. Vả lại, nếu tôi không làm thế, giữ hòa hiếu và bình đẳng với các quốc gia khác thì đảng đối lập sẽ kết tội tôi là phản quốc, là yếu hèn, là không bảo vệ quyền lợi của đất nước, sẽ tìm cách truất phế tôi. Nói là để bảo vệ đất nước nhưng thực chất là muốn bảo vệ “cái ghế”. Tôi buộc lòng phải làm như vậy vì  quy luật sinh tồn. Tôi chỉ là phàm phu nắm giữ quyền lực chứ không phải thánh nhân. Tất cả các lãnh đạo phải làm như vậy. Nó giống như nghiệp lực từ vô thủy kéo dài tới bây giờ. Có siêu cường nào chịu nhường nhịn các nước nhỏ đâu? Có sư tử nào nhường nhịn con bò, con nai đâu?
     Nghe nói thế, cậu bé nhược tiểu buồn rầu nói:
     – Tôi xin bạn đừng làm lãnh đạo để chúng ta suốt đời là bạn với nhau.
 
Lời người kể chuyện:
 
Quy luật sống của loài thú và loài người giống hệt nhau, đó là luật “Cá lớn nuốt cả bé”. Bằng cớ là nhân loại đã trải qua những thời kỳ kinh hoàng của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa bá quyền và chủ nghĩa bành trướng. Loài người lại còn dã man và tàn bạo hơn loài thú. Sư tử ăn thịt con nai no, rồi nằm lăn ra nghỉ. Còn loài người săn bắt dân tộc yếu kém làm nô lệ, thiết lập chế độ thực dân để biến cả dân tộc họ thành nô lệ, thậm chí diệt chủng và tiêu hủy cả nền văn hóa của họ và giết hại biết bao nhà ái quốc của dân bản địa. Loài thú tuy tàn độc do bản năng nhưng không biết tuyên truyền gian trá và lừa mị. Loài người khi muốn xâm lăng nước nhỏ thường nhân danh những lý tưởng cao đẹp, kéo bè kéo đảng gọi là liên minh để hợp pháp hóa hành động của mình. Họ quảng bá rầm rộ về tính văn minh và nhân đạo khi cứu giúp một con mèo, nhưng lại tiến hành chiến tranh, giết chết cả trăm ngàn thường dân vô tội của một nước nhỏ. Bản chất của loài người vốn ác độc như Tuân Tử nói, “Nhân chi sơ tính bổn ác”. Cái ác vốn có từ vô thủy chứ chẳng phải thời nay mới ác.
     Nhưng này bạn ơi:
     Rất may, không phải tất cả con người đều như vậy. Các bậc thánh nhân thuở xưa, để hóa dân, để kiềm chế bớt thú tính của con người đã rao giảng học thuyết “Nhân chi sơ tính bổn thiện” và “Mọi chúng sinh đều có Phật tánh”. Qua lịch sử, loài người cũng đã sản sinh ra nhiều bậc cứu nhân độ thế, dám hy sinh thân mạng mình để chống lại bạo quyền, san sẻ bớt của cải để cứu giúp người nghèo khó. Thế nhưng những đức tính thiện lành này không phải bỗng nhiên mà có. Có thể do thiên bẩm nhưng phần lớn giống như quặng vàng phải đào xới, sàng lọc mới thành vàng ròng, như đá quý phải giũa phải mài mới thành ngọc. Muốn trở thành hiền nhân thì phải tu tâm dưỡng tánh, phải đọc sách thánh hiền và phải có cuộc sống đạo hạnh.
     Ngày nay, với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, những luồng tư tưởng xấu, độc hại lan tràn không ít. Nhưng xen vào đó là những tư tưởng thiện lành đã có cơ hội nói lên tiếng nói của mình. Nó không còn bị áp chế, bưng bít, che giấu và chụp mũ như cách đây hơn một thế kỷ. Với hình ảnh của những đạo sư sống đời đạm bạc, rao giảng chân lý Từ Bi, Trí Tuệ và Bình Đẳng trên mạng lưới toàn cầu, thế hệ trẻ có cơ hội xem và học hỏi. Theo tôi nghĩ, thế hệ có tư tưởng gian ác nên từ từ chết đi và hình thành những thế hệ mới có tư tưởng bao dung, tiến bộ và nhân bản. Nhưng xin nhớ cho, gieo trồng những tư tưởng thiện lành không phải một sớm một chiều là có thể hái quả. Chúng ta phải kiên trì, nhẫn nại và không bao giờ nản chí khi gieo rắc những tư tưởng thiện lành.
     Vì thế giới này là thế giới của Tham Dục bùng cháy trong từng phút giây cho nên tôi nghĩ rằng nếu tư tưởng thiện lành lấn áp được tư tưởng hung ác thì vài trăm năm nữa thế giới mới có thể sống trong tình huynh đệ như Đức Phật dạy qua Lục Hòa, đó là Giới Hòa Đồng Trụ. Khi nhiều bậc thánh nhân ra đời thì thế giới sẽ sống trong an vui. Khi nhiều kẻ hung ác vẫn còn tồn tại thì thế giới Ta Bà này có thể vẫn tiếp tục với thói “Cá lớn nuốt cá bé” cho đến ngày tận thế. Đó là Nghiệp của chúng sinh.
     Bạn ơi:
     Hành tinh này hiện hữu có phải là tài sản riêng của các siêu cường, của kẻ mạnh muốn làm gì thì làm? Nó là mảnh đất chung của nhân loại mà không ai có quyền độc chiếm và áp đặt luật lệ của mình. Nếu có một thứ luật lệ chung thì nó phải được sự đồng thuận của tất cả các dân tộc và đạo đức phải là tôn chỉ mà loài người phải tuân thủ. Hiện nay tham vọng cuồng điên của nhân loại lớn tựa hư không mà tình thương thì chẳng chứa đầy tòa nhà Liên Hiệp Quốc.

 

– Đào Văn Bình 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.