Hôm nay,  

Sông Nước Mùa Hè

05/08/202200:00:00(Xem: 1690)
chim coc khoi canh

Chim cốc phơi cánh. (Ảnh của NTHH)

 
Nếu bạn ở một nơi có mùa đông dài 5 tháng, và nhiệt độ ban ngày thấp hơn độ đóng băng của nước, bạn sẽ thích mùa hè. Nhưng dù bạn có thích mùa hè đến mấy thì cũng có những ngày nóng ngộp thở. Bạn làm gì để giải nhiệt? Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã mời gọi: “Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày.”  Thật là chí lý. Mùa hè ở trong thành phố rất nóng. Cái nóng hắt từ mặt đường tráng nhựa và từ xe cộ thải ra rất khó chịu. Một trong những cách giải nhiệt giản dị nhất là xa rời phố thị, đi về quê. Còn gì sung sướng hơn “Chín mươi ngày nhảy nhót ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.”(1)  Người xưa từng nói về cái khoái lạc của mùa hè là tắm ao sen, hạ thưởng lục hà trì. Chúng ta có thể thay thế ao sen bằng hồ, sông, hay biển. Không cần ngụp lặn nếu bạn sợ dính bùn, hay nước mặn gắt, chỉ cần bạn đi dọc theo bờ sông, bờ hồ, hưởng làn gió từ mặt nước thổi lên là thấy người khoan khoái hẳn lên.
 
Trên đường trail Delaware and Raritan không có hoa sen nhưng hoa súng rất nhiều. Không phải loại hoa súng water lily của Việt Nam. Đây là loại hoa nhỏ như một quả banh golf màu vàng, gọi là pond-lily hay cow-lily. Loại hoa súng này tôi đã gặp trong một bức tranh của Hokusai. Có nghĩa là bên Nhật cũng có hoa này. Ở đây, mùa nào có hoa nấy. Đầu tháng Sáu hoa hồng dại và honeysuckles nở trắng hai bên đường. Hương hoa ngan ngát quyện vào mỗi bước chân. Tháng Bảy và tháng Tám, hoa mallow, một loại hoa dâm bụt nở màu hồng thắm mỗi hoa to như cái đĩa bàn. Hoa có mùi thơm nhẹ, nhụy có mật ngọt nên thường quyến rũ kiến và ong. Hoa thistle, còn gọi là hoa kế, vừa có nhan sắc lại vừa có hương thơm nhưng hiểm hóc đầy gai nhọn. Loại hoa hoang dại này lại được chọn tô điểm cho quốc huy của Tô Cách Lan. Hoa dại, hình như, ít khi màu đỏ. Chỉ thỉnh thoảng tôi mới gặp sát mé nước một loại hoa, cánh hoa nhỏ hơn hoa huệ (loại huệ trắng tuberose bên mình hay chưng trên bàn thờ chứ không phải loại hoa loa kèn lily), giống như hình con hạc màu đỏ thắm gọi là hoa cardinal có nghĩa là hoa hồng y. Cùng màu đỏ tươi thắm có trái dâu tây strawberry và trái redberry. Chừng ấy màu đỏ đủ gợi nhớ câu thơ nổi tiếng trong bài Tình Sầu của Huyền Kiêu, “Hạ đỏ vẫn chàng đến hỏi. Em thơ, chị đẹp em đâu.” Dọc dòng sông Millstone có rất nhiều ngỗng Canada và chim nước. Chim nước hay water-fowl, water-bird là loại nửa chim nửa vịt, có thể bay và đồng thời có thể bơi. Ở đây tôi thấy có merganser, Mallard duck, wood duck, và bufferhead. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó, con chim màu chocolate, nó đứng trên một tảng đá giữa khúc sông cạn, dang rộng đôi cánh như chờ gió lên cho đầy cánh để bay. Mãi về sau tôi mới biết tên chim là cormorant. Người Việt gọi là chim cốc. Rồi đột ngột nó cất cánh nhưng không bay cao, đuôi sà xuống chạm vào mặt nước, lệt phệt vài lần như thể bay không nổi để lại trên mặt sông mấy chỗ lõm gợn sóng. Về sau, tôi mới “ngộ” ra là nó đang rình để bắt cá chứ không phải tập bay.
 
Chim cốc không đẹp nếu dựa trên màu sắc. Những con chim được khen là đẹp đều có màu rực rỡ. Chim hồng y (cardinal) có màu đỏ tươi; bluejay màu xanh với nhiều sắc đậm nhạt có điểm trắng; hoàng yến, hoàng oanh (gold finch và oriole) có màu vàng tươi; két có đủ màu xanh đỏ; hoặc nếu không màu thì phải hoàn toàn trắng, trắng tươi, trắng xóa, như thiên nga. Chim cốc có nhiều loại, đốm vàng ở cổ, hay đốm trắng ở ngực, tuy vậy đa số đều có bộ lông màu nâu sậm. Thiếu ánh sáng trông nó đen thui. Mỏ nó dài, nhọn, và khoằm. Đôi mắt xanh đục, và đằng sau gáy có chùm lông dựng đứng. Người ta nói mình chỉ nhìn thấy cái mình biết. Khi chưa biết nó là ai, tôi không hề có cái khái niệm gì về con chim cốc. Nhưng khi biết có con chim cốc trên cuộc đời này thì tôi gặp nó ở nhiều nơi. Đặc biệt, nó xuất hiện rất nhiều trong văn chương của châu Âu.
 
Thi sĩ John Milton đã so sánh chim cốc với quỷ Satan. Trong bộ trường thi Paradise Lost (Thiên Đường Đã Mất) quyển số 4, Milton kể hai mạch truyện. Một mạch truyện nói về Adam và Eve. Mạch truyện còn lại nói về Satan (còn gọi là Lucifer). Satan vốn là thiên thần, sau khi quyết định nổi loạn chống lại Chúa, đã bay đến Eden (vườn địa đàng). Gã quỷ sứ đã đáp xuống cái cây to và cao nhất ở giữa vườn địa đàng. Đó là Cây Cuộc Đời  (Tree of Life). Hắn ngồi trên cây giống như một con chim cốc, suy nghĩ tìm cách mang cái chết đến cho loài người.(2)
 
Cốc nhỏ hơn hạc xám (great blue heron), thiên nga, hoặc ngỗng Canada, nhưng to hơn vịt Mallard đầu xanh. Lớp lông bên ngoài không thấm nước, nhưng lớp lông mềm bên trong có khi ngấm nước nên chim cốc thường dang cánh để hóng gió cho khô. Có lần nhìn hai con chim cốc há mỏ ra đối đáp với nhau, tôi thấy chúng trông có vẻ như đang cãi vã rất dữ dằn, nhưng biết đâu chừng đó là cái cách chúng nói những lời yêu thương với nhau.
 
Cốc lặn rất sâu và rất xa. Đứng rình chụp ảnh, tôi thấy nhiều lần chim cốc lặn rồi biến mất luôn. Có thể nó xuôi dòng đi rất xa và khi trồi lên lẩn vào gốc cây và rễ cây ở phía bên kia bờ sông tôi không tìm được. Chim cốc là loài chim săn cá thượng hạng. Cốc có thể nuốt con cá to gấp mấy lần vòng cổ của nó và có thể ăn cả chục con cá to trong chớp mắt. Chính vì khả năng này mà chim cốc bị Geoffrey Chaucer, thi sĩ nổi tiếng vào thế kỷ 14 với tác phẩm The Canterburry Tales, gán cho tật xấu là tham ăn. Năm trăm năm sau Bram Stoker, trong tác phẩm Dracula đã cho nhân vật của ông tự nhận là “ta có khả năng ăn nhiều như loài chim cốc.”
 
Từ biểu tượng của sự tham ăn, chim cốc dần dần biến thành biểu tượng của gian thương dùng mánh khóe của con buôn để bóc lột người mua, những người cho vay ăn lời cắt cổ, thậm chí là biểu tượng của những nhà sư hổ mang gian hùng và tham lam.
 
Cốc là loại chim mùa đông thiên di. Ở New Jersey khi trời trở lạnh là chúng biến mất. Vào tháng Năm trời ấm lại thấy vài con lác đác bơi trên sông. Chừng tháng Bảy tháng Tám chúng đậu đầy ở những cái đập trên sông để bắt cá. Chim cốc có mặt trên nước Mỹ, Anh, Tô Cách Lan và ở châu Á như Trung quốc và Nhật Bản. Tôi đã nhìn thấy cốc bay thành đàn ở những cái cầu tàu chung quanh Fisherman Wharf, San Francisco. Mấy chục con bay hàng dọc, là là sát mặt nước, bay một đỗi thật xa, theo hướng gió đánh vòng tròn quay trở lại, như là một đoàn quân diễn hành cho du khách thưởng lãm, trông rất ngoạn mục. Tôi cũng gặp chim cốc ở Uji, ngoại thành của Kyoto, một trong 13 nơi của Nhật dùng chim cốc để săn bắt cá. Ở gần chân cầu Kisen bắc ngang con kênh dẫn nước từ sông Uji, có trại nuôi chim cốc để đi săn.
 
Năm 1900 ở Flannan Isles, một quần đảo Tô Cách Lan, đã xảy ra một vụ mất tích thật kỳ bí mà người ta không tìm ra nguyên nhân, cũng không thể giải thích được. Trên đảo Eilean Mòr (đảo chính của Flannan Isles) có một ngọn hải đăng và một ngôi nhà nguyện đã bị hư nát. Có ba nhân viên chăm sóc ngọn hải đăng này, James Ducat, Thomas Marshall, và Donald McArthur. Họ được tuyển chọn, đào tạo, rất thiện nghệ và hoàn toàn được tin cậy. Ngày 15 tháng 12 năm 1900, chiếc tàu Archtor từ Philadelphia đến Leith (Tô Cách Lan) thấy hải đăng không hoạt động, có lẽ vì thời tiết quá xấu. Ngày 18 tháng 12 tin hải đăng không hoạt động được báo cáo với Northen Lighthouse Board. Ngày 26 tháng 12, bão dịu xuống, mới có người đến được ngọn hải đăng và khám phá ra cả ba nhân viên chăm sóc ngọn hải đăng đều mất tích như tan biến vào thinh không. Tất cả đồ dùng trên đảo và đồ dùng của ba người đều còn nguyên vẹn, ngoại trừ bãi cập bến ở bờ Tây bị hư hại nặng vì cơn bão. Người ta đưa ra nhiều giả thuyết, những giả thuyết này được viết thành tiểu thuyết, làm thành phim. Một trong những giả thuyết này là ba nhân viên trông coi ngọn hải đăng đã biến thành ba con chim cốc bay ra khỏi đảo theo sự tưởng tượng của Wilfrid Wilson Gibson trong bài thơ Flannan Isles.
 
Gần đây nhất, cuốn phim Vanishing (Biến Mất) phát hành năm 2018 với Gerad Butler là diễn viên chính, đạo diễn Kristoffer Nyholm đã đưa ra một giả thuyết để giải thích vì sao ba nhân viên hải đăng đồng loạt biến mất.
 
Chim cốc xuất hiện trong văn học như một biểu tượng của ý nghĩ đen tối hay hành động xấu xa. Ngay cả Shakespeare cũng chê chim cốc không tiếc lời. Trong Richard II, act 2, scene 1, đại thi hào đã miêu tả chim cốc như sau:
 
Kiêu hãnh, chim cốc không bao giờ thỏa mãn
Phương tiện để tiêu thụ, sớm muộn gì cũng trở thành miếng mồi của chính nó.
 
Người Trung Hoa và Nhật Bản đều dùng chim cốc để săn bắt cá. Người Nhật Bản không nghĩ xấu về chim cốc. Họ nuôi và huấn luyện chim cốc để phục vụ loài người. Lợi dụng tài săn cá cũng như tật ăn tham của chim cốc, họ cột ngang cổ cốc một cái vòng, cột dây vào chân và thả cốc xuống nước đi săn. Sau đó họ nặn cổ chim cốc bắt nhả ra những con cá đã săn được. Chim cốc nhiều lần làm “người mẫu” cho nhà danh họa Hokusai. Trên mạng thấy lưu truyền một bức tranh chim cốc của Hokusai khá to và dữ dằn. Còn một bức khác tôi gặp trong quyển Hokusai Beyond the Great Views do Timothy Clark biên soạn. Bức tranh vẽ chim cốc đậu trên một cột gỗ dưới chân cột là hoa pond-lily màu vàng.
 
Các nhà thơ Nhật nổi tiếng như Issa, Onitsura, và Basho cũng viết rất nhiều bài haiku về chim cốc.
 
Thật thú vị làm sao,
chiếc thuyền săn chim cốc!
Nhưng chỉ một lúc sau
Tôi cảm thấy nỗi sầu.
 
 
Thú thật, những lời chê bai của các nhà văn châu Âu về chim cốc không thể bôi xóa được hình ảnh đẹp mà chim cốc đã mang đến cho tôi. Tôi xem một vài cuốn phim người ta dùng chim cốc đi săn trong đêm. Ông câu chèo phía sau, chim cốc ngồi trên thuyền như một người bạn đồng hành, bên cạnh là thùng lửa đốt để soi sáng. Hình ảnh lửa thuyền chài trên sông đã khiến tôi nhớ đến một câu trong bài thơ cổ.”Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.”  Thi sĩ Tản Đà đã dịch nguyên bài như sau:
 
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
.(3)
 
Bài thơ có thể tả cảnh mùa hè, ban ngày trời nóng nhưng đêm có sương. Trước kia đọc bài thơ tôi không thể tưởng tượng được hình ảnh giang phong ngư hỏa như thế nào. Một ngày cuối hè đứng ở bến sông Uji, bên chân cầu Kisen, nhìn những con chim cốc được nuôi trong lồng, và lửa thuyền chài trên một tấm áp phích, tôi dường như nghe được tiếng chuông chùa, không phải của Hàn San Tự mà của Byodo-in cách đó chừng vài trăm mét. Bài thơ cổ trở nên lộng lẫy hơn nhờ hình ảnh thuyền chài đi săn cá bằng con chim cốc.
 
Nguyễn Thị Hải Hà
 
Chú thích:
 
(1)    Xuân Tâm, Nghỉ Hè.
(2)    Thence up he flew, and on the tree of life,
The middle tree and highest there that grew,
Sat like a cormorant; yet not true life
Thereby regained, but sat devising death.
John Milton, Paradise Lost (Kindle Locations 951-952).
(3)    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô tô thành ngoại hàn san tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
.
Trương Kế, Phong Kiều Dạ Bạc.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm đi Cần Thơ, đứa cháu gọi bằng chú kể chuyện đi Hòn Kẽm- Đá Dừng, ranh giới tự nhiên hiện nay giữa 2 huyện Quế Sơn-Hiệp Đức, một địa danh mà thời trung học và đến mãi sau này tôi vẫn nghĩ là vùng núi non hiểm trở phía thượng nguồn sông Thu Bồn, nơi được biết đến nhiều bởi trận lụt kinh hoàng ở Quảng Nam năm Giáp Thìn 1964...
Mùa hè một chín bảy hai, cha tôi tử trận ở Long Mỹ, để lại một vợ và bốn con. Mẹ lúc đó mới ba mươi sáu, tôi mười lăm và thằng Thanh vừa bảy tuổi. Sau gần ba tháng bàng hoàng, tang thương mẹ tôi trở lại với cuộc sống cơm áo đời thường với đàn con nhỏ dại...
Ngồi trên bãi biển Nha Trang khi thủy triều xuống cuốn nước xa bờ để lại vạt cát dài màu trắng mịn, và lúc nắng chiều chiếu xiên trên mặt biển gợn sóng lăn tăn, trông như dải lụa dát vàng lung linh đến tận các hải đảo xa mờ mây nước, khách nhàn du sẽ mê mẩn với sắc màu kỳ diệu của buổi chiều tà mà quên hết cảnh huyên náo chung quanh...
Buổi tối hôm ấy, Quân đến nhà Phượng chơi như thường lệ. Sau vài câu thăm hỏi tình hình bệnh của má Phượng, chàng thầm thì...
Mấy nay phân xưởng Debug của hãng máy tính nhận người vô liên tục, hàng hóa đang cần gấp. Hoài Hương lướt web và thấy hãng IMF đang cần nhiều người làm việc, có thể làm bán thời gian hoặc toàn phần...
Hoạt đạp chiếc xe đạp cà tàng đi lang thang trên khắp những con đường Sài Gòn để mua đồ phế liệu...
Tôi thuộc lứa sinh viên “tú tài Mậu Thân, cử nhân Nhâm Tý”, nhưng chỉ được vế đầu, còn đỗ cử nhân thì phải đợi đến… Giáp Dần...
Căn phòng này / chiếc bàn này / nơi chúng ta đã từng ngồi / nâng ly / chúc mừng một bức tranh vừa hoàn tất / chúc mừng một cuốn sách vừa in xong / chào mừng một người bạn từ phương xa đến...
Tôi xin kể bạn nghe câu chuyện về hai ngôi làng, một của người Bahnar và làng kia của người J’rai trên vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam, bây giờ được nhập chung là tỉnh Gia Lai-Kontum. Nói rõ hơn một chút, Làng Hồ, ngôn ngữ Bahnar là Kontum; Làng Đuôi, tiếng J’rai là Pleiku...
Làm người Huế là đã mang một cái “nghiệp” tha hương. Vì đất thì chật mà lòng người thì rộng lớn nên không giữ được những bước chân ôm mộng viễn xứ sông hồ. Huế kỳ cục, ở thì không thấy thương mà đi xa rồi mới quay quắt nhớ. Nhớ đất, nhớ quê có khi di lụy cả một đời…
Nhà Trần đã khởi nghiệp với năm vị vua liên tiếp đều là những bậc anh hùng. Mặt ngoài các ngài đã lập được những chiến công hiển hách, đẩy lùi được mấy cuộc xâm lăng của lũ cường khấu phương Bắc. Mặt trong các ngài lại giỏi việc văn trị, cố gắng lo cho muôn dân được sống trong cảnh no ấm, yên vui. Thời kỳ vinh quang, thịnh vượng đó đã kéo dài gần một trăm năm...
Cầu Hội có dáng “hình thang” thật đơn giản, cao và thông thoáng. Chỉ là chiếc cầu gỗ mảnh khảnh nên nó lại phù hợp, hài hòa với sự êm đềm lắng đọng của cảnh vật chung quanh. Vì cầu Hội cao và thông thoáng nên thuyền qua lại ngược xuôi dưới gầm cầu được dễ dàng. Dưới gầm cầu, bóng núi và mây vẫn lung linh, trôi chảy theo dòng suối mà không bị vướng mắt, hay bị cắt ngang hoặc che lấp...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.