Hôm nay,  

Chiến tranh

6/20/202222:48:00(View: 3942)

Tùy bút

 

z 1 8 war ukraine dhsg
 

Nếu mỗi người có một ngàn kiếp sống

Chẳng nghĩ suy nếu chết đủ ngàn lần…

-- Chúc Thanh

 

Chiến tranh, ai cũng sợ vì chiến tranh súng đạn bắn giết, mang lại những đau khổ triền miên, người Ukraine họ đang chạy nạn chiến tranh.

 

Tu entendras crier les pauvres

Tu entendras gémir ce monde!

 

Đã gần nửa năm trôi qua, người tị nạn Ukraine có nhiều người muốn trở về quê hương của họ.

Vì cảnh ăn đậu ở nhờ nơi tạm dung làm họ cảm động và xót xa. Tôi thấy một bà lão già, trong một bữa ăn, bà ngồi nhìn mãi cái ngăn đồ ăn trước mặt có thịt, đậu hầm và bánh mì. Một nhân viên điều hành cứu trợ hỏi:

 

« Sao bà không ăn đi… Ăn đi kẻo nguội! » Bà lắc đầu và nói bà chỉ muốn trở về nơi ấy.

 

« Quê hương đang đánh nhau khói lửa, làm sao về ngay được… rồi sẽ bình yên, sẽ về sau. »

 

« Tôi muốn về ngay, xem và làm lại nhà tôi… »

 

« Điện nước, cầu đường… cả một hệ thống bị phá hủy hư hại, bà kiên nhẫn đợi… mọi người sẽ cùng làm sau, một mình bà bà làm gì nổi! »

 

Bà lặng lẽ khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi còn lại lăn dài xuống má, xuống cằm, rớt một hai giọt xuống đĩa đậu hầm.

 

« Tôi chỉ muốn về nhà đợi, biết đợi đến bao giờ, tôi già lắm rồi, tôi sợ không kịp. »

 

Con người là vậy, mình có thể rời xa nhà mình, mà nhà mình thì không bao giờ ra khỏi mình.

 

Vì sau hơn một tháng, Kiev không còn bị Nga pháo kích và không kích nữa, chiến tranh đã chuyển lên Donbas. Cho nên cư dân họ muốn hồi hương, việc hồi hương của người Ukraine tràn lan ở biên giới, những xe hàng rồng rắn, xe bus, xe tư nhân nối đuôi nhau đông nghẹt chờ đợi để cùng nhau về lại quê hương.

 

Ông Roman Makar, tài xế xe bus, bảo là chưa bao giờ thấy đông người về như thế đó, càng ngày càng đông thêm. Cuộc gặp gỡ ở biên giới, phải nói là đoàn tụ thì đúng hơn, đầy nụ cười và cũng đầy nước mắt. Ông Yuki Vasylli đã 70 tuổi, thổi saxo mừng gặp lại vô số hàng xóm, người thân và người không quen. Tất cả họ, cũng như ông, còn sống sót. Người bạn trẻ Vassyly Boryko lau nước mắt, khi biết tin cha mẹ anh đã mất ở quê nhà do bom đạn khốc liệt cuối tháng 4. Cô gái Anna Bori hớn hở sách khăn gói lên xe bus trở về, cô nói cô không còn sợ hãi nữa, mình chỉ chết khi nào Chúa điểm danh và gọi tên mình, tôi đang trở về nhà tôi và không bao giờ  tôi rời đi nữa, tôi đang thấy hiện ra trước mắt tôi một quê hương tươi sáng, một quê hương trước ngày Nga khai chiến, ở đó, là một quê hương tươi sáng không bao giờ phai mờ.

 

Vâng, qua đống đổ nát đó, tôi còn nhìn thấy một ngôi nhà quen thuộc, đó là nhà tôi, và bây giờ có những ngôi nhà có thể bị xiêu vẹo cháy xém, là những ngôi nhà bị thương. Những ngôi nhà đổ sập là những ngôi nhà đã chết. Có thể còn những ngôi nhà còn nguyên mà các cánh cửa đóng kín mít, đó là những nhà chủ vắng nhà, những ngôi nhà kín cửa là những ngôi nhà mù lòa, chúng ta phải về để mở cửa chúng ra, chữa cho chúng khỏi bị mù lòa kinh niên. Và người Ukraine đã tới tấp trở về, họ còn có một quê hương để trở về!

 

Nhưng trong hơn một tháng qua, Kiev không bị Nga pháo kích và không kích, nay người di tản trở về, đang trở về thì Nga lại nổi điên, lại mang bom đạn tới dội, thì những người hồi hương đó sẽ ra sao? Chiến tranh chuyển động và chuyển mình như người bị sốt rét, bị bệnh kinh niên, nay thế này, mai lại thế khác. Có trời mà biết!

 

Tôi lo lắng bồn chồn, và tôi nhớ lại những năm tháng đã qua, cuộc chiến thảm khốc kéo dài lê thê trên quê hương Việt Nam, những con người đã từng « dựa lưng nỗi chết » (1) là những con người nhậy bén để cảm nhận « nỗi buồn chiến tranh » (2). Ngay từ khi tôi mới sáu, bẩy tuổi, tôi đã phải đi tản cư. Gia đình nhỏ bé của tôi ở ngoài miền Bắc Việt Nam, quê tôi nằm bên kia sông Thái Bình, mạn biển. Thụy Anh, Thái Bình. Khi mẹ tôi mất rồi, dì tôi về thế chỗ mẹ tôi, dì có thêm cho tôi một đứa em trai. Dì ghẻ mà không ghẻ, dì hào phóng nuôi tôi như một đứa con gái ruột. Chị em tôi rất hòa thuận, mỗi lần dì tôi chia phần ăn, cơm, cá, bánh trái, hoa quả, bà luôn chia cho hai đứa hai phần đều nhau, có khi tôi được hơn em tôi một chút, vì bà nói là: « Chị nó ăn hơn con một chút là tại nó có cái bụng lớn hơn bụng con. » Thằng cu em chợt xoa bụng nó và ngó tôi mỉm cười. Chúng tôi sống ở miền quê, rất thôn dã, quê tên là Thái Bình mà thật ra cũng hiếm có khi Thái Bình!

 

Dì tôi thuần túy là nông dân sống với ruộng vườn. Hồi đấy, tôi còn nhỏ, thơ dại, mà tôi vẫn nhớ đến nay, tôi nhớ như in, là những năm tháng 1948-1950 quê nhà nằm giữa vùng giao tranh của Pháp và Việt Minh. Tôi cứ suy nghĩ và nhớ hoài giai đoạn đó, vì đã có lúc tôi tự hỏi có phải vì thời kỳ 100 năm bị đô hộ giặc Tây, mà giặc Tầu là Trung Quốc, tới ngày nay chưa nuốt trọn, xâm chiếm gọn Việt Nam, như nó đã từng ăn gỏi nước Tây Tạng của Đức Đạt Lai La Ma?

 

Tôi nói vậy, không phải là tôi cám ơn thực dân Tây, mà sự việc gì nó cũng có tác dụng và tạo ra phản tác dụng, nhưng nhờ đó, tôi nhớ hoài kỷ niệm đi tản cư và hồi cư thời thơ ấu.

 

Cứ như thế đó mà tôi lo sợ và nghĩ tới người Ukraine cuộc đi và về ở hai nơi này có hơi và cũng rất nhiều điểm giống nhau.

 

Quê tôi, ngày xưa đấy, gọi là vùng tề, đêm Việt Minh về gây rối, thu thuế, bắt người, rải truyền đơn y như là làm truyền thông ban ngày, Tây lại lên làng càn quét, bao vây, bắn phá, đốt nhà dân chúng lấy đi đồ ăn và đồ dùng của dân, y cảnh lính Nga tràn vào Ukraine, Kherson, Bucha. Chúng ăn cướp của dân, giết người, cưỡng bức… mà người ta gọi chúng là bọn thổ phỉ, mà khi chiến tranh xẩy ra ở đâu, là có thổ phỉ ở đó. Thổ phỉ Nga, theo hình ảnh in trên mạng, chúng lấy cả đồ ăn và đồ dùng như điện thoại và đồng hồ của nhà người dân.

 

Khi phát biểu tại trụ sở NATO ở Bruxelles, Macron Emmanuel, tổng thống Pháp muốn thu thập các bằng chứng tội ác chiến tranh ở Nga, đề nghị cho hiến binh và thẩm phán đến tại chỗ thu lượm các hình ảnh chứng cớ để đưa họ ra xét xử trước tòa án hình sự quốc tế. Họ được tổ chức Human Rights Watch đồng thuận và đồng hành.

 

Xin được đi ngược thời gian, ăn cơm mới nói chuyện cũ. Trở lại chuyện tản cư xa xôi khi tôi còn bé, những lần làng quê bị Tây bố như vậy thật là khổ cực, người già trẻ lớn bé tự động rỉ tai báo động, rồi bồng bế con cái, mang theo chút ít lương thực tránh lên làng trên đó ít ngày, đợi tình hình yên yên hết tiếng súng, lại lục tục kéo nhau về. Có những lần chạy kịp là may, có những lần chậm chân, gặp Tây, là có vài người bị bắt, có người bị nghi là Việt Minh bị bắn chết, sau đó, trong làng lại có vài đám ma, lại u buồn ủ giột ít ngày.

 

Tôi cũng không hiểu sao chúng tôi còn may mắn sống sót. Dì tôi nói là có Phật Trời gia hộ, có phước đức ông bà chở che và chúng tôi chưa tận số. Chớ lần nào có giặc tới, là chúng tôi cũng chạy sau hết mọi người. Ông bà, cô chú, làng xóm luôn luôn chạy sớm. Còn dì tôi, vì cố tật tham công tiếc việc, nên luôn luôn ba chúng tôi chỉ rời nhà, rời ngõ khi tiếng súng “cắc bọp” đã vang lên loáng thoáng ở đầu làng.

 

Lúc sớm thì cả nhà có rủ đi chạy loạn trước, hai chị em tôi cũng không đi theo, cả hai đứa nặng nặc ở lại để đợi dì tôi từ ngoài cánh đồng về. Có lần máy bay ruồng bố quá, hai đứa tôi ôm nhau chui lọt xuống cái cối giã gạo trong nhà bếp. Có khi dì tôi về tới thì nhà đã vắng hoe, còn mỗi mình chú Thi, là con nuôi của ông nội, chú ngồi lại ở vườn chuối sau nhà, chú tình nguyện ở lại coi nhà và có lẽ chú lo cho hai đứa tôi đang rất nguy khốn một mình trong căn nhà thênh thang. Dì tôi gan dạ lắm, về trễ nhưng không chạy ngay đâu, còn lùa rơm và trâu vào chuồng, cho gà qué ăn rồi đuổi chúng đi, cài cửa kho lúa, dặn dò chú Thi những hầm ẩn trốn an toàn, v.v… Xong hết ngần ấy việc dì mới dắt hai đứa tôi cùng ra khỏi cổng, có lúc vừa đi vừa chạy.

 

Thường giặc theo đường đê, vào đầu làng, chúng tôi thoát ra bằng ngõ cuối làng sau đình. Phải qua, lội qua một cánh đồng lúa nước khá mênh mông, mới vượt xa được tầm giặc Tây, thoát được lên làng trên đó là quê của dì, làng Yên Lệnh, bên cạnh là Đồng Tỉnh.

 

Người Bắc hay hát:

 

Ai lên Đồng Tỉnh Huê Cầu,

Để thương để nhớ để sầu cho ai…

 

Chẳng biết với người khác thì thơ mộng làm sao, chớ với dì tôi, thì chỉ có mấy thằng Tây thực dân, mắt xanh mũi lõ là để khổ để sầu cho bà ấy rất nhiều!

 

Vì lỗi cũng phần lớn là tại dì, dì đi tản cư sau mọi người, vừa chạy vừa dắt theo hai đứa tôi, miệng vừa lẩm bẩm niệm Phật. Mà điều oái oăm hơn là dì tôi đi sau mà lại cứ thích về trước mọi người. Bà tham công tiếc việc lắm, đến nơi lánh nạn rồi, mà đứng ngồi không yên, hễ nghe ngóng tình hình, êm êm tiếng đại bác, là bà giục chúng tôi sửa soạn dắt díu nhau về làng. Dì sợ lỡ nắng quá, ruộng khô tát nước không kịp, mạ non lớn mau, cấy không xong… Thế nên đã có lần đêm khuya thanh vắng chúng tôi lần mò về nhà sau vài ba ngày đi chạy loạn. Vừa kịp lội lên khỏi đầm nước thì bất chợt nghe tiếng người quát tháo, cả hàng tràng súng liên thanh bắn vào đêm!

 

Mẹ con, dì cháu sợ quá, nằm mọp sau mấy ngôi mộ mới còn cao, nằm suốt đêm, bà nắm chặt mỗi đứa tôi một cái chân, đợi gần sáng, lại mò mẫm lội ngược trở lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu, Yên Lệnh ở thêm vài ba ngày nữa.

 

Đã có lần giặc lên gấp quá, dì tôi về trễ như mọi lần, mà lúc ra đi, dì còn dắt theo ngoài ba chúng tôi, một con trâu cái, là vốn liếng của dì. Ra tới bờ đầm, dì vội vã lùa trâu xuống nước, rồi bà bế xốc hai chị em tôi lên lưng con trâu, dặn chúng tôi ôm nhau cho chặt và chắc. Một tay dì tôi đeo một bao gạo khá nặng, một tay lôi thừng trâu kéo nó đi theo bà. May mắn con trâu cái lội nước quen nên đi theo người thoăn thoắt, y là nó linh cảm nguy hiểm ở phía sau. Cu em tôi nghe đạn bắn veo véo, sợ quá cùng siết chặt vai nhau cúi rạp đầu. Ngồi ngất ngưởng trên mình trâu như vậy mà hai chị em tôi không bị trúng đạn. Người bị thương lại là dì tôi, bà bị bắn vào bắp chân, con trâu dường như bị đạn xuyên qua bụng.

 

Dì tôi chỉ kịp kêu to một tiếng “Ối giời ôi!” bước lạng quạng thêm vài bước rồi té ùm xuống nước. Con trâu cũng khuỵu gối xuống theo dì. Hai chị em tôi bò loi ngoi lóp ngóp trong đầm nước đục ngầu đỏ loang máu!

 

Lần đấy, nhờ thanh niên tự vệ của làng đến cứu kịp. Dì tôi, trời Phật thương, đau ốm vài tháng rồi cũng qua khỏi. Coi vậy chớ dì tôi khóc tức tưởi mãi khi người ta mang võng đến võng dì đi. Bỏ lại con trâu cái hấp hối chờ chết trong đầm nước. Những ngày kế tiếp, trong cơn sốt nóng li bì, dì cầm tay tôi căn dặn nhiều lần: “Nhắn chú Thi chôn giùm xác con trâu cho dì.”

 

Đó là những chuyện xa xưa rất xưa rồi…

 

Hôm nay, nhìn một bà đầm Ukraine, vai đeo giỏ nặng, một tay bế một đứa con nhỏ, một tay kéo theo một con chó médor yêu dấu, cả ba đều chạy theo xe bus đi di tản, nét mặt họ đầy vẻ hoảng loạn, vừa đi vừa sụt sịt khóc. Người Tây cứ sợ là khóc thôi.

 

Nói vậy chớ tôi rất bần thần lo lắng với họ, chiến tranh khi nào cũng giống nhau, đầy sợ hãi, bi thuơng, kèm theo là chết chóc, rồi tử biệt sanh ly, tiếp theo sau chiến trường, là những con đường đi rất vắng vẻ, những hàng cây trơ trụi và một không khí ảm đạm thê lương, một ánh sáng trắng bạch hơi đục, ánh sáng của nến, của đèn cầy của con đường dẫn dắt tới một cõi âm u.

 

Hồi chiều nay, ngày 6/6, tôi nghe nói trên RFI, truyền thông loan tin và luận đàm chiến sự, có người không bằng lòng ông Emmanuel Macron, vì ổng nói là: “Putin đã phạm một sai lầm căn bản, Putin tự cô lập, tự cô lập là một chuyện, muốn thoát ra khỏi điều đó lại là một lộ trình khó khăn, mọi người cũng không nên làm nhục nước Nga”.

 

Có lẽ đúng là Macron, ông ấy nói quá lời, tự ông Putin, ông ấy đã làm nhục nước Nga rồi, vì ông ấy hiếu chiến và hiếu sát. Tuy nhiên, đối với tổng thống Pháp, đây chỉ là một lối nói ngoại giao, một lời nói chính trị thì đúng hơn, vì tổng thống Macron không phải là người ác, tâm sinh tướng, cứ nhìn mặt Macron, ông ấy luôn muốn gợi ý chấm dứt chiến tranh bằng ngoại giao, bằng đối thoại, mà muốn đối thoại với nhau được, thì hẳn là không được hạ nhục nhau, phải mở ra cho kẻ cùng đường đi (có thể là một con chó dữ) một lối ra, một khung cửa hẹp để thoát ra mà không cay cú, không cắn quàng nhau.

 

Đáp lời, Ngoại trưởng Dmytro Kuleba của Ukraine phát biểu tiếp theo trong một “tweet” cá nhân rằng: “Lời kêu gọi của ông Macron kêu gọi tránh làm nhục Nga, chỉ có thể làm nhục nước Pháp và mọi quốc gia khác chủ trương kêu gọi điều này.”

 

Trong hoàn cảnh chiến tranh đang căng thẳng tột cùng, mà dùng thông tin dẻo miệng đổ thêm dầu vô lửa, e rằng chỉ làm cho cuộc chiến điên cuồng hơn, vô phương bàn luận rồi, hãy nghe bài thánh ca của chúa:

 

Ecoute la voix du Dieu

Prête l’oreille de ton cœur

Tu entendras que Dieu fait grâce

Tu entendras l’Esprit d’audace

Ecoute la voix du Dieu

Prête l’oreille de ton cœur

Tu entendras crier les pauvres

Tu entendras gémir ce monde! (3)

 

Thử hỏi tại sao người Việt ở hải ngoại không thể nào và không bao giờ hòa hợp hòa giải được với chế độ Việt Nam đang cai trị trong nước? Câu hỏi đã có sẵn câu trả lời trong câu hỏi, vì là cộng sản đã đầy đọa và đã sỉ nhục người Việt Nam tự do nhiều quá, nhiều đến mức gọi là vô bờ bến!

 

Khi một cuộc chiến quá lâu, quá thê lương như cuộc chiến Việt Nam, khi tàn cuộc chiến, thì bên thua chưa hẳn là nhục, và bên thắng cuộc cũng chẳng vinh quang gì. Vì họ, cả hai đã thảm sát nhau quá nhiều, kể cả nhân mạng và tình người. Khi đã buông tay, giã từ vũ khí, mà còn hạ nhục đối phương thì chẳng bao giờ đối phương có thể xích lại gần, mà tôi đây, « tôi » thắng cuộc, tôi cũng muốn tâm sự rằng:

 

Đi ra thì nói thì cười

Áo quần sạch sẽ cho người khỏi khinh

Về nhà mình chuyện với mình

Lưng trần, quần cộc, quẩn quanh trong nhà

Trời ơi, chân giả tháo ra

Cò cò lết lết như là trẻ con

Trót duyên một chút văn chương

Đêm ngày bò xổm trên giường viết văn

Khi đọc khi viết khi ngâm

Nghe trong gan ruột âm thầm riêng ta…

(Thơ của Hoàng Cát)

 

Ai cũng muốn kết thúc chiến tranh trong vinh quang để ca khúc khải hoàn, đó là lý tưởng. Vậy ai thua? Chưa có câu trả lời.

 

Chỉ mong rằng Thượng đế luôn công bằng, rằng kẻ nào gieo gió sẽ gặt bão lớn.

 

Còn tiền tệ và tiền lệ của chiến tranh là máu. Khi các gia đình chôn cất người thân của họ ở Ukraine, một số người, tiêu biểu là môt người khá lớn tuổi, tên là Mitry Vassyly ở Bakhmut, ông ấy đặt câu hỏi về giá máu mà họ phải trả, và hỏi rằng:

 

“Liệu có tốt hơn nên trả cho một lệnh ngừng bắn bằng cách nào, bằng đất đai hay bằng máu và mạng sống?”

 

Tôi rất quan tâm và suy nghĩ mà tôi cũng không trả lời được, phải trả lời thế nào cho đúng cả về lý trí và tình cảm? Chịu thua!

 

Tôi chỉ biết là chỉ những người đã sống trong chiến tranh, sống với bom rơi đạn nổ khi mặt đất rung rinh vần vũ, máu lửa vung vãi ngột ngạt, ta chạy đi đâu trong căn nhà lửa tam giới, thập giới này? Ở đâu mình cũng có thể chết, chết một lần, chết hai lần và cả ba lần hay bốn lần…

 

Khi con người ta “dựa lưng nỗi chết” (1) thì con người ta dễ cảm nhận nhậy bén “nỗi buồn chiến tranh (2)

 

Chúc Thanh

(Paris, 6/2022)

 

(1) Tác phẩm của Phan Nhật Nam.

 

(2) Tác phẩm Bảo Ninh.

 

(3) Xin tạm dịch cho thoát ý:

 

Hãy nghe tiếng nói của trời,

Hãy nghe nhịp đập của lời trái tim,

Con sẽ thấy Thượng Đế ban ơn!

Con sẽ thấy tinh thần dũng cảm!

Hãy nghe tiếng nói của trời

Hãy nghe nhịp đập của lời trái tim.

Con sẽ thấy người nghèo kêu than!

Con sẽ thấy thế gian rền rỉ!

(Bài ca của Nhà nguyện Ste. Jeanne Antony)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền.
Buổi sáng cuối tuần, mùa đông chớm về với những cụm mây xám nhạt, lơ lửng trôi trên bầu trời California, không khí se se lạnh, tôi và Hoàng ngồi ngoài hàng hiên quán Coffee Lovers của Thành phố Hoa vàng nhìn trời hưu quạnh. Bên hai ly cà phê sữa nóng và dĩa bánh Patechaud, Hoàng nói chậm dãi, nhỏ nhẹ, kể cho tôi nghe về quê ngoại của Hoàng thời niên thiếu.
Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
Đọc xong email của Cathy, Khôi mỉm cười khoan khoái, bước xuống phòng khách pha cho mình ly cà phê nóng của buổi sáng cuối tuần. Trời đã cuối Thu, những chiếc lá khô cuối cùng lao xao đuổi nhau theo những cơn gió nhẹ trên mặt đường, tạo nên một âm thanh vui tai. Hàng cây khô trụi lá khẳng khiu đang rung rinh trước gió, chuẩn bị cho những ngày đông dài sắp tới. Khung cảnh thật bình yên. Bình yên như tâm hồn Khôi sau những tháng ngày băn khoăn, ray rứt đã qua.
Vào cuối tháng 5 vừa qua, tôi lại có dịp quay trở về lại mái trường xưa, để tham dự buổi lễ ra trường của một cháu gái Cynthia Ngô, được lãnh nhận bằng Tiến Sĩ Luật Khoa, tại Đại Học Oklahoma City University (OCU), mà tôi là người đỡ đầu (God Father) khuyến khích cho cháu này theo học ngành luật khoa, cũng tại ngôi trường trước kia tôi học.
Dù bạn chưa từng đến Huế, nhưng đã từng nghe tiếng địa danh này qua hai câu hò quen thuộc: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương... ..
Đây là chuyện tình yêu xưa, xa xưa lắm rồi, nhưng dư âm vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến thế hệ chúng ta hôm nay… hình như con người sống nương tựa rất nhiều vào tình yêu… tình yêu cho con người nhiều ý nghĩa thiêng liêng, nhiều gia vị đậm đà đáng sống. Nếu hỏi tại sao là vậy, thì thưa rằng bên cạnh tình yêu và cuộc mưu sinh, ta còn có những gì? Bầu cử ư, bầu cử đã qua rồi, ngã ngũ rồi, không còn gì để bàn nữa. Nhưng nếu bạn muốn theo dõi hậu bầu cử, đó cũng là ưu điểm, coi thế sự cuộc đời sẽ diễn tiến ra sao những ngày sắp tới. Trước mắt, bên cạnh, xung quanh còn vây phủ đe dọa đầy chiến tranh tàn khốc hủy diệt đe dọa sự sống còn của nhân loại bằng những vũ khí của khoa học hiện đại tân tiến, cộng với lòng ác độc của tham vọng, của chính trị không phương giải quyết.
Một người bạn nói với tôi rằng có những bài thơ hoặc những đoạn văn nằm hoài trong đầu của mình từ hồi còn nhỏ, nên khi được nhắc tới thì tự động tuôn ra. Tôi thấy có lý. Mỗi khi có dịp nói chuyện với ai về lòng biết ơn, tôi cứ như theo quán tính, chia sẻ một bài thơ ngày xưa tôi học ở bậc Tiểu Học. Không hiểu vì sao! Vì mình có tính hoài cổ? Hay vì đầu óc tuổi nhỏ dễ khắc ghi? Hay vì đây là bài học bắt buộc trong sách giáo khoa? Hay chỉ đơn giản là vì bài thơ có lời lẽ giản dị mà sâu sắc?
Nắng đã tắt từ lâu. Trời đen thẫm bên ngoài. Mùa đã về qua những chiếc lá vàng rơi rải rác theo những câu thơ trong những tạp chí văn chương của thành phố. Mùa thu nằm co trên trang giấy. Heo may lẩn quẩn đầu môi những kẻ gạ tình. Không có mùa thu ngoài đời sống ở nơi này. Hơi nóng vẫn râm ran không khí. Bên ngoài vắng gió. Trong này, chiếc quạt trần lờ lững quay. Và cuộc đối thoại nhì nhằng mãi chẳng đi đến đâu.
Đi dạo trong công viên Vigelandsanlegget, trời rét căm căm. Bỗng dưng, tôi nghe tiếng nhạc réo rắt. Một nhạc công phong cầm ngồi giữa băng tuyết, đang chơi bài Sóng Nước Biếc. Thật là tình cờ kỳ diệu. Mới hôm qua, hôm kia, ở Đức, khi chậm chân nghe nhạc công chơi phong cầm ở nhà ga, trí tôi lao xao nhạc điệu bài Sóng Nước Biếc. Bươn bả chạy nhanh cho kịp giờ xe, tôi tiếc, định bụng hôm nào thuận tiện sẽ đến yêu cầu. Hôm nay, ở Oslo, tôi được nghe Waves of the Danube của nhà soạn nhạc người Lỗ-Ma-Ni, Iosif Ivanovici. Lời Việt Sóng Nước Biếc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương thật tuyệt vời. Trong cái lạnh cắt da, giữa công viên rộn ràng du khách, tôi mơ màng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.