Hôm nay,  

Trận chiến thầm lặng

4/3/202221:09:00(View: 2887)

Truyện ngắn

bad secretary

 

Từ hơn hai năm nay, kể từ khi đại dịch Covid-19 hoành hành, như mọi người lớn tuổi, tôi ít khi ra ngoài nhà, trừ phi bắt buộc đi mua chút đồ ăn, đi bác sĩ, đi chích ngừa… Phần lớn thời gian là cách ly với mọi người, một hình thức như là mort sociale. Nhưng không mình vẫn sống nhăn và phải sống để thấy « thương hải biến vi tang điền ».

 

Tôi có nhiều thì giờ rảnh, ngày rộng tháng dài, tôi lang thang vào Internet, đi từ Âu sang Á, về Việt Nam xem Việt Cộng tạo dựng vụ bán test-kit Việt Á tịnh thất Bồng Lai. Tôi sang Nam Phi coi omicron hoành hành dữ dội ra sao, rồi trở lên giường, dựa tường mở tablette đọc hồi ký miền nam của anh Nguyễn Tài.

 

Bên lề cuộc chiến

Nỗi đau trên chiến trường

Lạc mất nhau rồi

Ngày đầu cuộc chiến

Những người lính cũ, v.v…

 

Càng đọc tôi càng thấm thía, chinh chiến điêu linh, trong cuộc chiến dài dằng dặc ấy, toàn dân tham chiến, cuộc chiến điêu linh ở chỗ chúng ta vừa thắng vừa thua, và bên địch cũng vừa thua vừa thắng. Chúng ta thua nên chúng ta không muốn sống với CS, chúng ta chạy tản mát ra ngoài Việt Nam, ra sống định cư rải rác khắp mặt địa cầu. Còn phe CS ư? Chúng bảo là « đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào » rồi chúng cũng muốn loay hoay « cút » theo Mỹ, bám theo Ngụy mới lạ kỳ!

 

Tôi nhớ mãi khi xưa trước 1975 có một chị bạn dạy học cùng trường, năm 1970 chị bỏ đi mất dạng. Sau 1975 về lại Sài Gòn, về làm trưởng phòng giáo dục quận I đô thành. Chị thường lên lớp chúng tôi trong những buổi học chính trị mở đầu. Ngại thì có ngại, nhưng vì là bạn cố cựu xưa, nên có lần có một anh bạn cắc cớ hỏi chị là:

 

– Chị Dung này, chị vô đảng chưa ?

 

– Anh hỏi chi vậy?

 

– Ý tôi muốn khuyên chị nếu chị vô đảng rồi, thì chị nên xin đảng cho chị một cái vé máy bay khứ hồi, chị sẽ bay đi tham quan sang Mỹ, Tây Đức, Canada…

 

– Để làm chi?

 

– Để xem tụi tư bản nó giẫy chết ra làm sao!

 

– Anh ăn nói chi mất lập trường!

 

– Úi chao, tụi tôi có lập trường đâu mà mất!

 

Ôn lại những kỷ niệm xưa, tôi lại cười một mình dù đã vùi đầu vô trong chăn ấm mùa đông xứ người. Tôi cũng chạnh lòng thương Dung, vì trước ngày tôi bỏ Việt Nam ra đi, có lần Dung đã tâm sự vụn cùng tôi là, Dung rất muốn cho con gái Dung đi du học ngoại quốc, vì giáo dục hậu chiến lộn xộn quá!

 

Rồi bẵng đi hàng bao năm lận đận, như đã nói, tôi sang Pháp đoàn tụ gia đình.

 

Chồng tôi, một chiến binh miền nam, sau ngày quốc hận, đi học tập cải tạo 5 năm vất vả khổ nhục, về lại thành phố, loay hoay tất bật lắm nỗi đoạn trường, vượt biên, sau cùng sang Paris và may mắn là mang được cả các con theo.

 

Năm 1985 đặt chân lên xứ người, tôi mày mò làm nhiều nghề để cùng chồng nuôi con, có lúc tôi đi bán bông, tưởng làm cô hàng hoa thì khỏe ru, nào ngờ nó vất vả quá, không chỉ bán, còn lau chùi, thay nước các bình hoa lớn và nặng, mang vác cây thông Noël è cổ trong mùa lễ Noël và năm mới dương lịch. Tiệm bán bông không có lò sưởi, nhà vệ sinh cũng để chứa hoa, ôi chao là khó khăn, giờ vắng khách, ngồi uốn dây kẽm kết hoa vòng. Sau một mùa Giáng Sinh, tôi phải vô nhà thương vì trẹo chân.

 

Khi rời bệnh viện, tôi làm việc khác, đi gác áo quần ở hồ bơi, lúc đó tôi cổ hủ và quê ơi là quê, nhìn thấy tây đầm trần truồng đi qua đi lại hà rầm trước mặt, tôi lại có ý đổi nghề, hồ tắm cũng ướt át trơn trượt dễ té lắm.

 

Quả thật là tôi không thể làm nghề tay chân cật lực ở xứ sở người ta với cái vóc dáng còm cõi nặng 40 kí lô, cao không quá 1m50.

 

Tôi không chê nghề mà nghề chê tôi.

 

Tôi quay ra đi học, vì hồi đấy nhà nước Tây còn khá giả, nên nếu tôi là mẹ một gia đình đông con mà đi học sẽ có trợ cấp khá, được đi học được trả lương mà không đi học thì dại quá. Thế là tôi cắp sách về lại trường lớp.

 

Sau 3 năm dùi mài kinh sử, tôi vẫn phải đi chệch sang một bên, tôi vẫn không được gọi làm cô giáo như ở bên nhà, tôi được gọi làm thư ký phụ tá cho bộ đại học, collège de France.

 

Làm việc ở môi trường đó, tôi tiếp xúc với nhiều giáo sư từ mọi xứ sở đến, tôi cũng gặp cơ man là các em sinh viên mọi miền mọi nước. Sinh viên Tàu đông nhất, sinh viên Việt Nam cũng đến nhiều, chỉ hầu hết là các em sinh viên miền Bắc và miền Bắc Trung phần, lác đác rất ít, có thể nói đếm trên đầu ngón tay là sinh viên Việt Nam miền Nam.

 

Sinh viên miền Bắc phần lớn con em cán bộ đảng viên cao cấp, tôi đã là thầy một thời, tôi không chấp nhất trẻ con, nhưng tôi buồn buồn cho phần thiệt thòi của các em học sinh miền Nam thân yêu của tôi.

 

Tôi cứ ngồi đó, ở văn phòng campus France nhận hồ sơ du học và chờ, chờ mãi, 1 năm, 2 năm, 3 năm mà rất ít, rất ít, họa chừng lắm mới có một em sinh viên miền Nam, còn toàn là người của phe thắng cuộc. Ngày nào, ra khỏi sở tôi cũng ngao ngán thở dài: « Các em ơi, bây giờ em ở đâu, Bến Hải hay Cà Mau góc biển hay rừng sâu? »

 

Tôi nhớ học trò của tôi lắm, nhớ mặt và nhớ cả họ tên, nhớ cả đứa giỏi và đứa dốt. Nhớ cả đứa chăm chỉ và đứa lười học. Lòng buồn rười rượi, chán mớ đời, tôi rảo bộ ra phố Tàu Quận 13 ăn phở. Khi buồn tôi thích ra phố tàu ăn phở. Tiệm phở Á Đông có đầy sinh viên phục vụ chạy bàn. Mà lạ lùng, nơi đây chạy bàn cũng toàn là sinh viên Việt Cộng, nói như hát, nói líu lo, có lúc gay gắt khó hiểu, chạy trời không khỏi nắng, tôi cũng gọi phở và café sữa, thêm một ly chè 3 màu. Ăn cho đỡ buồn mà! Xung quanh có nhiều tiếng động, nhưng tôi vẫn tò mò nghe được hai cô đang tâm sự với nhau, tôi nghe lóm:

– Này, Tú ơi, mày làm tiệm này đến bao giờ?

 

– Mày sắp nghỉ việc, học thi hả?

 

– Tao thôi làm, vì tao không cần làm nữa, mẹ tao mới cho tao tiền, làm cực quá.

 

– Sộp không?

 

– Khá lắm, bà via mới bán được cái nhà.

 

– Bà via mày mới vào Nam mà đã có nhà bán à?

 

– Chậc, thì nhà cơ quan cấp cho ông bô tao ở Lê Thánh Tôn, bà via tao xin được hóa giá, lấy được sổ đỏ, bà ra Gò Vấp mua căn nhà nhỏ, dư ra 1500 cây, bà cho tao chút ít, còn đang lo chuyển sang anh tao! Bà bán nhà lớn mua 2 nhà nhỏ.

 

Hai cô lại bá vai bá cổ nhau, sầm sì, sầm sì tiếp. Tôi không còn nghe rõ, tôi choáng váng, tụi nó trắng trợn thú tội ăn cướp nhà cửa, tiền của nhân dân!

 

Xoảng!!!

 

Tôi ngất ngư làm rớt ly chè ba màu, tiếng thủy tinh vỡ sắc cạnh, đau nhói.

 

Tôi hơi luống cuống, à mà gia đình nào có ông bố bà mẹ kiếm tiền nhanh và nhiều thế thì con cái sướng thật, nhưng hỡi ôi, đó lại là những đồng tiền oan nghiệt, những đồng tiền xương máu của dân miền nam thân yêu!

 

Chúng ta đau buồn thì giờ phải làm sao? Chúng ta có quyền lực gì đâu mà ngăn chặn?

 

Họ, bọn cán bộ ăn trên ngồi chốc, lúc nào chúng cũng là kẻ cướp hiện nguyên hình. Từ khi tôi sinh ra đời, năm 1945, chúng đã là kẻ cướp, chúng cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim. Năm 1975 chúng tràn vào miền nam, ỷ thế ngoại cường thu xếp trao đổi, chúng lên chân cướp bóc tiền bạc, của cải của miền Nam chở ra miền Bắc. Chúng đuổi dân thành phố đi kinh tế mới để cướp nhà kiểm kê tài sản để cướp vàng cướp tiền chúng đánh tư sản, tổ chức vượt biên chính thức. Ngày nay, thế kỷ 21 này, nhờ có tiền vàng đã ăn cướp được của miền Nam, chúng mở cửa làm kinh tế thị trường.

 

Văn hoá thị trường. Tôn giáo thị trường. Cái gì cũng thị trường hết, chúng nhắm tới cướp lớn, cướp khoa bảng, cướp trí tuệ! Cướp lớn, cướp một cách vô tri thức và vô đạo đức Chúng ráo riết gửi con cái đi du học là thể hiện tất cả âm mưu cướp lớn, để xem chúng ăn cướp được những gì? Và những gì không bao giờ ăn cướp nổi!

 

Thưa bạn, tôi chỉ nhớ loáng thoáng, hình như Albert Einstein, đã nói là « Người lương thiện và thông minh thì không là Cộng Sản, người Cộng Sản thông minh thì không lương thiện, người Cộng Sản lương thiện thì không thông minh ».

 

Ông tác giả này nói hơi vòng vo, tôi chỉ muốn nhớ đại khái và giản dị như ông cha ta khi xưa thường bảo: « Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. »

 

Ý là còn Cộng Sản thì muôn đời còn là xấu, xấu hết. Thêm nữa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã định nghĩa: « Cộng sản là một loại cỏ dại, độc hại, nó mọc ở đâu, nó làm hư đất ở đó và làm chết hết những cây cỏ mọc xung quanh nó. »

 

Thế thì phải làm sao để nhổ cỏ độc hại hỡi trời? Nó, chúng nó, đang nẩy mầm mọc quanh đây. Tôi có ý ra tay làm cỏ dại… cỏ hại thì đúng hơn là cỏ dại. Việc này so ra không khó lắm với tôi. Tôi làm có tí chút, so ra chả đáng gì bạn ạ. Tôi có thể phá đám phá đám tụi Việt Cộng con khi tôi nhận hồ sơ của sinh viên Việt Nam du học mang đến nạp ở campus de France. Tôi là phụ tá bà tổng thư ký Bonnet, tôi có thể vứt bỏ luôn từng xấp hồ sơ của sinh viên miền Bắc vào máy cắt vụn giấy, rồi ấn nút, là xong, cho khỏi ngứa mắt.

 

Nhưng suy nghĩ lại, rồi họ sẽ tìm ra tôi thủ phạm. Tôi đâu phải 5, 7 tuổi, dù lòng căm ghét lên ngút trời, tôi lặp lại, tôi rất ghét họ, ghét từ thời Cộng Sản chập chững thời ông Hồ Chí Minh. Họ đã thủ tiêu cha tôi! Mẹ tôi góa bụa liều mạng cõng tôi, khi đi xe, lúc đi bộ, vượt ngày, vượt đêm từ Hà Nội vào Sài Gòn. Mẹ tôi tự xoay sở một mình buôn bán nuôi tôi lớn. Tôi được mẹ cho đi học các trường rất nổi tiếng và khi tốt nghiệp xong chương trình trung học, tôi đã có mảnh bằng tú tài Pháp. Tôi là người Việt Nam, lai Pháp ¼, tôi mang tên họ nửa Tây nửa tên thánh Marie le Témoin. Đúng là Madame le Témoin, tôi đã sinh ra và đã làm chứng cho bao nhiêu sự việc bất công trong cuộc đời này.

 

Mới lâm trận, tôi áp dụng chiến thuật bombarder tôi giở một đống hồ sơ, xem từng mặt đương sự một, mặt mũi các em cũng sáng sủa, đúng là những đứa trẻ sinh ra đời không được chọn cha mẹ, chúng đẹp và đặc vẻ Việt Cộng, vẻ Việt Cộng thì tôi không biết nói làm sao cho dễ hiểu, nhưng đặc biệt đó toàn là con của những ông to bà lớn, con ông tỉnh ủy, con ông bí thư thành ủy, con bà chủ tịch, huyện ủy cao cấp… toàn là miền ngoài, chẳng có một em miền Nam hay một em học sinh nào của tôi được lọt vô sổ vàng!

 

Cha mẹ chúng đều xin cho con đi du học tự túc. Vì đi theo diện học bổng du học, chúng hình như không đủ điều kiện. Chính phủ Pháp hỗ trợ sinh viên ngoại quốc từ 30 đến 50% tiền chỗ ở, tài trợ 60% tiền học phí và y tế. Gần như toàn bộ du học sinh Việt Nam sang Pháp từ 1976 đến 1996 đều là sinh viên du học tự túc.

 

Không hiểu sao họ nhẩy lên và đẩy lên quá mau. Nhập cuộc, lâu lâu 1, 2 tháng, tôi rút gọn một hồ sơ như rút loto, nguyên tập giấy đi vào máy cắt, tan nát, tan nát như họ đã làm tan nát cuộc đời của bố tôi khi xưa, tan nát như họ đã làm tan nát bao nhiêu binh đoàn thiện chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tan nát như họ đã làm tan nát bao nhiêu gia đình của xã hội miền Nam thân thương của chúng tôi!

 

Xong việc, tôi quên bẵng, nhưng độ chừng nửa năm sau lại nguyên cái tập hồ sơ ấy xuất hiện. Tôi cáu tiết, thẳng tay cho vào placard cao sát trên trần nhà, đóng ập lại, cho mày mất đường ra, đáng đời con thòi lòi sáu mắt!

 

Rồi bao nhiêu lần coi kỹ một số hồ sơ, tôi thấy bắt đầu khinh bỉ và nhờm tởm. Hầu hết toàn xin campus France đến du học tự túc, nghĩa là ngoài toàn bộ hồ sơ hành chánh, họ đính kèm giấy tờ tài khoản ngân hàng, với những con số dài hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn.

 

Quái quỷ ở Việt Nam cũng có máy in tiền euro chăng?

 

Bà Bonnet xoa đầu tôi:

 

– Ôi, mày lại nổi cơn điên, mày là người Việt Nam mà mày không thích cho dân Việt Nam mày giàu có sao?

 

Rồi bà ngó lơ qua cửa sổ, kể lể:

 

– Hồi xửa xừa xưa ba và má tao cũng sang Việt Nam làm việc, tao còn nhiều hình ảnh kỷ niệm.

 

Xửa xừa xưa đó, gia đình bà có lẽ là thực dân, nhưng đó là chuyện riêng của bà, chuyện riêng của tôi lại khác. Khác, giống, thì chúng ta cứ phải làm việc đi, rồi cuối tháng sẽ được lãnh lương. Tôi cúi xuống cười thầm, dĩ nhiên tôi cần làm việc để có lương, và còn làm việc riêng kín đáo của tôi nữa, việc này quý hơn việc lãnh lương.

 

Khoảng thời gian 1985 đến 1995 tổng thống Mitterand ưu ái cho khá nhiều dân Arabe nhập tịch, rồi sự việc tòa đại sứ Việt Nam ở Pháp đòi sinh viên Việt Nam du học phải nộp cho tòa đại sứ một nửa số học bổng Pháp chu cấp cho mỗi sinh viên, đoàn sinh viên phản đối phía Việt Nam, họ dọa sẽ không cho sinh viên hồi hương sao đó. Vin vào cớ đó, một số em xin ở lại định cư ở Pháp.

 

Nhiều việc xáo trộn xẩy ra giữa tòa đại sứ Việt Nam và campus, nhưng rồi mỗi ngày tôi và bà Bonnet vẫn ngồi cùng nhau cứu xét từng chồng hồ sơ xin du học, tôi nhìn bà, bà làm việc chăm chỉ và tốt bụng, bà là một người Pháp rất tốt bụng như nguyên thủy và bẩm sinh, nhưng cũng có nhiều giấy tờ nguyên bản dịch ú ớ, nên bà hiểu lơ mơ đại khái, bà có hỏi tôi, tôi cũng không hứng thú mấy, giải nghỉa loăng quăng.

 

Từ cái loăng quăng đó, tôi tìm ra một cách thức tấn công mới, tôi bắt đầu chiến dịch bắn sẻ, lẻ tẻ. Nghĩa là thỉnh thoảng, mỗi hồ sơ, tôi rút ra một tờ, một tờ thôi, nắm vô tình tờ nào tôi vất đi tờ đó. Đa số hình như bị xé đi giấy của tài khoản ngân hàng, tôi không ưa những tiền bạc gian lận.

 

Nhưng rồi lại bổ túc, thì loay hoay máy bay qua lại cũng ba đến sáu tháng. Sáu tháng là trễ một niên khóa. Hồ sơ lại phải chờ cứu xét vào năm học sau. Chẳng ai lưu tâm tìm hiểu tại sao, vì giấy tờ hành chánh phức tạp rơi rớt là chuyện thường. Đặc biệt thủ tục hành chánh ở campus rất nặng nề và phiền toái.

 

Thời gian này tôi loại bỏ nhẹ nhàng địch thủ liên tiếp, hữu hiệu, tuần tự, kéo dài cuộc chiến đơn phương:

 

Tháng janvier, tôi rút ra vài mẫu đơn visa xin gia hạn. Tháng mars, tôi thảy đi ít bản sao hộ chiếu so với hiệu lực visa. Tháng mai, hủy đi một số hồ sơ không có bằng cấp đính kèm. Tháng juin tháng juillet tháng août, campus nghĩ hè. Tháng septembre, khai trường, hồ sơ cần kiểm điểm lại từ đầu. Tháng oct, nov, déc, chộn rộn lễ Giáng Sinh và năm mới.

 

Khi những ngày lễ cuối năm tới liên tiếp và tưng bừng chộn rộn, thì hồ sơ du học có thê bị ném đi rất nhiều, như ném giấy lộn vô thùng rác, khỏi cần sử dụng ấn nút máy cắt vụn. Tại sao? Vì là vì giấy gói quà tặng ở đâu cũng nhiều, quá nhiều, làm tôi say máu như say champagne brut!

 

Nhưng khi mình say máu, làm quá sức, thì dễ bị phát hiện. Tôi lờ mờ linh cảm sau một mùa Noël, campus nghi ngờ ra kẻ chủ mưu xáo trộn và vất bỏ giấy tờ của văn phòng.

 

Năm 2008, tôi nhận được giấy thuyên chuyển nhiệm sở, tôi về làm việc cho croust ở cité université 5. Campus chẳng phiền hà ai một câu! Họ thản nhiên mua cho tôi quà tặng khi tiễn tôi sang làm việc bên căng tin là quán ăn sinh viên.

 

Ở nơi làm việc mới, môi trường mới, tôi không gặp nhiều sinh viên Việt Nam nữa. Tôi gặp các em của đủ mọi quốc gia. Tôi ít việc làm hơn, có lúc ngồi chơi games như con nít, một đôi khi cũng có một băng sinh viên Việt Cộng đi cùng nhau vào quán ăn, họ nói nói cười cười khá ồn ào.

 

Nghe có người Việt nói tiếng Việt là tôi ngửng đầu lên ngay. Cứ liệu hồn đó! Tôi còn sống là còn nhiều phương cách sáp trận!

 

Cái hận ngàn đời kể cũng khó hóa giải! Việt Nam ơi, tôi vẫn thấy tập đoàn Cộng Sản vẫn còn đó, chúng vẫn mỗi ngày mỗi làm tệ hại hơn, đau khổ hơn cho quê hương cho dân tộc tôi. Vì sao ư? Vì cái kẻ tội đồ vẫn cứ nằm chình ình ra đó.

 

Chúc Thanh

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Năm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai...
Cái tên Pulau Bidong nghe rất đỗi thân thương và gần gũi với nhiều người vượt biển Việt Nam lánh nạn cộng sản từ sau năm 1975 và cũng là biểu tượng của ngưỡng cửa Tự Do mà nhiều người mơ ước. Mảnh đất nhỏ bé này là một hải đảo, cách xa tiểu bang Terengganu của Malaysia khoảng một giờ đi thuyền. Nếu có cơ hội, những người thuyền nhân năm xưa nên trở lại, chỉ một lần thôi, thực hiện một cuộc hành hương trở về vùng đất Thánh. Dù không phải là một cựu thuyền nhân tạm dung nơi hải đảo hoang vu này, đôi chân lạ lẫm không quen của tôi đã đặt chân lên Pulau Bidong trong một chuyến du lịch ngẫu hứng, cho ký ức quãng đời tỵ nạn ngày xưa lần lượt trở về trong tôi.
Tả sao cho hết cảnh cổng lớn đồ sộ. Từ chân lên đến đỉnh, tràn ngập mặt nạ treo kín mít. Đủ loại mặt nạ tượng trưng cho thiện ác, xấu đẹp, đúng sai. Có cả mặt nạ Chúa, Phật, thánh thần, hiền nhân, ác tặc, vân vân. Dọc bên dưới là những thùng lớn chứa vô số mặt nạ theo kiểu treo bên trên. Người nào đi vào, tự động lựa cho mình một loại mặt nạ hợp với tính tình, mang lên, rồi mới được tiếp tục đi. Mỗi người có hai mặt nạ, một thật đã thói quen thành giả và một giả thật chồng lên.
Chúng tôi cùng cười vui vẻ tìm đường ra khỏi cổng chùa Thiên Trù tức “chùa Ngoài” để rồi tiếp tục cuộc hành trình vào chùa Hương Tích tức “chùa Trong”...
Anh nhớ rõ buổi sáng hôm đó, anh đang chăm chú theo dõi viết bài bài thi Dictée Francaise do thầy Trương Thành Khuê đọc, bỗng nhiên ngửi thấy mùi cứt, cả lớp ngẩng đầu nhìn qua bệ cửa sổ thấy có 4 người tù đẩy một chiếc xe có hai thùng phân của nhà lao Phan Rang, theo sau là môt tên lính mang súng và tay cầm roi da. Cả thầy Khuê và các bạn đều nhìn ra cha của anh, một trong 4 người tù ấy. Anh cúi xuống và tiếp tục viêt bài thi. Cuối giờ thi, nước mắt anh hoen ố bài Dictée. Thấy vậy thầy Khuê lấy tờ giấy chậm (buvard), chậm khô bài thi Dictée. Cha của anh cũng là giáo viên, có thời ông là bạn láng giềng thân thiết của thầy Khuê. Đến lúc ra về, các bạn Long Địch Trạnh, Trần Nhât Tân, Trần Văn Thì... đang đứng đợi anh bên ngoài véranda, các bạn đến an ủi và vổ về khích lệ khuyên anh cứ tiếp tục thi.
Hai đứa cùng lớp từ tiểu học. Nhà Quỳnh Lâm ở gần sân vận động. Nhà tôi ở đường Quang Trung, gần trường Chấn Hưng. Hai đứa đến trường Nữ Tiểu Học từ hai hướng khác nhau. Vậy mà vẫn cứ đi vòng, để cùng đến lớp. Hai đứa vẫn thường tắm chung trước khi rời nhà. Quỳnh Lâm mặc mấy áo đầm kiểu trong báo Thằng Bờm, Thiếu Nhi. Ba tôi bảo thủ, cho tôi diện những kiểu đầm xưa lắc, xưa lơ. Có năm, kiểu áo đầm xoáy, tay cụt rất thịnh hành. Chị Thanh Tâm xin Mạ ra tiệm Ly Ly may cho tôi một áo. Nhưng Ba bắt phải cải biên, tức là phải dài quá gối (đâu còn thuộc họ mini jupe nữa đâu), và tay phải dài che cùi chỏ.
Người con gái ngồi bất động như thế đã từ lâu lắm; dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Trời biếc xanh, lác đác những khóm mây bông gòn trắng nõn, biển xanh thẫm phía trước, sóng dạt dào xô nhau vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa dưới chân. Tất cả như cùng cuốn hút nàng vào cái bao la mịt mùng bí mật. Ở một góc nhìn từ bên sườn dốc đá, thấy nàng nhạt nhòa trong nắng như một phần của núi non đã hóa thạch từ ngàn năm trước. Người con gái, như tượng đá, mong hoài một điều không bao giờ xảy ra; một ước mơ không bao giờ thành sự thực; hay nàng đứng chờ trông một người đã mịt mù bóng chim tăm cá?
Ngày Hiền Phụ hay là Ngày Lễ Cha (Father’s Day) rơi vào ngày Chủ Nhật thứ 3, tháng 6 hàng năm tại Hoa Kỳ, được Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức công nhận là ngày lễ quốc gia từ năm 1966, sau đó Tổng Thống Nixon ký thành luật, ban hành năm 1972. Theo lịch sử Hoa Ký, vào năm 1909, bà Sonora Smart Dodd lúc đó 27 tuổi, sau khi nghe diễn thuyết về ngày Lễ Mẹ tại đền Spokane tiểu bang Washington, bà nảy sinh ý muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh người cha, vì cha cũng xứng đáng được tôn vinh như mẹ. Tư tưởng này xuất phát từ lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương dành cho các con của cha bà là ông William Smart. Vợ chết ngay khi sinh đứa con thứ 6 vào năm 1898, ông William Smart đã ở vậy, một mình nuôi 6 đứa con ở một nông trại miền Đông tiểu bang Washington Hoa Kỳ.
Tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ nói ra, mà là ngôn ngữ để giữ kín! Tôi đã chôn kín hình ảnh đẹp nhất một đời người. Bây giờ người con gái năm xưa đang ở đâu, sống ra sao trong vạn nẽo đường trần hệ lụy. Có còn nhớ cơn mưa bong bóng chiều nào nơi hiên ngôi chùa nhỏ? Có còn tìm thấy những cơn mưa bong bóng bên đời? Hay tất cả đã phôi pha, đã trôi theo những giọt mưa bong bóng một thời đã mất?
Sau khi đội chiếc mũ beret đen lên đầu ông Hậu bước ra ngoài, thấy lòng thoải mái hẳn ra, ở trong nhà này toàn là “luật lệ” ăn cơm đúng giờ, đi ngủ đúng giấc, con dâu “kiểm tra” ông từng tí một “Ủa hôm nay sao ba tắm trễ, tắm vào buổi tối dễ bị cảm lạnh đó ba.” Con trai cũng “để ý” ông từng tình huống: -“Tối qua ba thức khuya quá, 12 giờ đêm con dậy đi tiểu thấy phòng ba còn sáng đèn. Ba nên ngủ sớm dậy sớm tốt cho sức khỏe”. Ông có niềm vui với computer lúc đọc báo xem tin tức, xem you tube mọi đề tài, lúc nghe nhạc, lúc vào group trò chuyện với bạn bè gần xa, ngồi với computer cả ngày cũng chưa chán. Thế mà con cũng… phê phán.
Ờ ờ thì số này đây, nhà này đây, lúc trước kia ông đã lên vài lần mà, ông đâu có lầm, mà nay sao thấy là lạ… hình như chúng đã phá bỏ cây hoa bông giấy phía trước, thay vào đó là một hàng rào thưa trống vắng… đúng là số nhà đó mà. Ông săm săm mạnh bạo đẩy cổng… thì bất chợt hai đứa cháu nội, Hiền và Nghĩa, cũng bật tung cánh cổng chạy ùa ra đón ông, vừa đón ông, vừa như chúng ngăn lối vào, mỗi đứa nắm cứng một bên tay ông, giữ lại, miệng lắp bắp: Nội, nội lên Sài Gòn sau không báo tụi con? - Nội, nội đừng vô nhà, bị… bị má con đi vắng!
Thị trấn ấy vô cùng nhỏ bé. Một con đường chính viền hàng cây phong với vài ba ngã tư đèn xanh đèn đỏ. Từ đó mọc lan ra những con đường nhỏ, quanh co vào những khu xóm thưa người. Vì vậy khu rừng sau nhà là nơi tôi lui tới thường xuyên. Một tấm bảng với hai chữ “Dead End” gắn trên cây cột gỗ chôn ở bìa rừng. Một lối mòn vắt trên cỏ dại, bò quanh co giữa những tàng cây cao và bụi rậm với dây leo chằng chịt. Tôi thường mò mẫm một mình trên lối mòn ấy cho đến khi đám dây leo vắt ngang, chặn mất lối đi và cỏ dại xóa hết lối mòn. Dọc lối mòn quanh co ấy, thỉnh thoảng có một tảng đá nằm trơ trọi giữa cỏ cây rậm rạp, như thể ai đó đặt sẵn chỗ nghỉ chân cho những kẻ rong chơi. Và rải rác đó đây một loài hoa lạ. Loài hoa có bốn cánh mở ra vào ban mai và khép lại khi chiều xuống. Những bông hoa phảng phất mùi quế. Loài hoa lạ lùng dường như chỉ mọc trong cánh rừng ấy
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.