Hôm nay,  

Ngày Tết

10/02/202109:49:00(Xem: 3147)

Hôm nay thứ Sáu, còn đúng một tuần nữa là Tết, vì thế mà ra khỏi sở sớm để ghé chợ mua vật dụng về nấu bánh chưng cuối tuần nầy. Coi đi coi lại cái list đã làm không biết bao năm trước. Cũng chừng đó thứ thôi: nếp Nhật hạt tròn, đậu xanh, thịt ba rọi, lá chuối, đủ nấu chừng mười lăm cái mà khi nào cũng dư lại một ít đậu xanh. Nhưng cũng nhờ thế mà nấu được thêm mấy chén chè bông cau, để nhớ ngày xưa…

Đã mấy mươi năm nay chưa bao giờ mua một cái bánh chưng ngoài chợ và không nhớ lần cuối ăn một miếng là lúc nào. Có người em năm nào cũng cho một cặp bánh chưng từ một  tiệm nổi tiếng ngoài Bolsa, rất to, vuông vắn, lá xanh tươi, nơ thắt ngay ngắn… nghe đâu bây giờ tới hơn hai mươi đồng mỗi cái, nhưng mở ra, thấy rồi thì hết muốn thử. Năn nỉ anh nầy đừng cho nữa nhưng Tết nào cũng nhận một cặp, chắc anh sợ mình tủi thân vì trong nhà ai cũng có mà mình thì không. Không có những thứ người khác có chưa chắc là chuyện không hay!

Năm nào cũng nấu. Có năm nói thôi, có ăn uống chi đâu mà phải mất công, nhưng rồi gia đình, bạn bè nhắc, nay lại thêm hai người con đang “về nguồn”, biết “quý” cái bánh chưng ngày Tết vì thế mà cứ tiếp tục. Có cô em người bạn ăn bánh chưng ở nhà anh chị, gặp mình nói em biết là anh chỉ nấu ít thôi nên em không dám xin nguyên cái, năm tới anh cho em nửa cái cũng được. Cô nầy đam mê nấu ăn, nhất định phải nấu đêm nấu ngày nồi bún bò Huế cho đến khi nào “tới” mới thôi. Chắc bây giờ “tới” rồi nên hai vợ chồng ra mở tiệm. Cô biết thức ăn “ngon” không nằm ở lượng mà ở phẩm. Thức ăn dù ngon đến mấy cũng chỉ ngon vài ba miếng đầu, càng ăn thêm càng dở. Tiệm ăn càng cao cấp thì portion càng nhỏ, dọn ra một cái dĩa rất lớn mà chỉ có vài ba miếng lèo tèo ở giữa.

Nói là mất công nhưng không phải là không có phần trông ngóng. Im lặng hằng giờ, thong thả vò nếp, vò đậu, lau lá, nấu bánh, vớt bánh, ép bánh…mà lòng nhẹ như mây!  Thiếu cái cảm giác ấm áp khi ngồi canh lửa cạnh nồi bánh, có khi suốt đêm, như ở bên nhà, nhưng vẫn còn cái tỉnh lặng nhẹ nhàng trong lòng. Những lúc như thế nầy, bên tai như vẫn còn nghe tiếng mưa rơi trên mái tranh lẫn trong tiếng chuông chùa sáng sớm, khi ngồi bên bếp lửa chờ nghe tiếng kêu leng keng của cái xách cơm bằng nhôm đụng lên cái ghi-đông xe đạp vọng đến từ rất xa, biết là người bạn học sắp đi ngang, để ra chờ sẵn cùng đạp xe tới trường. Có những chiều tan học đạp xe về nhà thì trăng sớm đã lên, con đường làng êm ả sáng dưới trăng, thơm mùi rạ từ những thửa ruộng vừa xong mùa gặt.

**    


Nấu bánh chưng có chi là khó! Vo nếp, đậu như cách người Nhật vo gạo. Phải nói là “rửa” gạo mới đúng. “Rửa” nhiều lần, mỗi lần phải quay qua quay lại quanh cái thau ba mươi hai lần (?) cho dến khi nước trong như nước mưa. Rồi phải đợi cho nếp và đậu thật ráo nước. Gói không chặt quá để nếp và đậu có chổ nở ra và dính lại với nhau, nhưng không lõng quá để nước thấm vào làm nhão bánh. Sắp những miếng thịt như thế nào để khi chín, có chút mỡ chảy ra nhưng không dính tràn ra ngoài nếp. Úp mặt ngoài miếng lá chuối vào là cái bánh chưng xanh như ngọc khi mở ra. Có điều vì làm thế mà mặt ngoài chiếc bánh không xanh như bánh ngoài chợ. Nếu được đẹp cả trong lẫn ngoài thì quá quý, nhưng nếu chỉ có một thì mình chọn giữ cái đẹp phía trong. Để bánh có màu xanh nhiều nơi dùng phẩm màu trộn vào nếp, có khổ tâm không. Một người có nhan sắc, khôn ngoan và tự tin thì bôi son quét phấn, mang vòng vàng cà rá đầy người làm chi cho nhiều!
Trúc xinh trúc đứng một mình cũng xinh!

Cái khó của bánh chưng nằm ở chổ tìm ra cái balance giữa nếp, đậu và thịt. Người thích nhiều nếp, người thích nhiều đậu. Người thích có chút mỡ, người tìm bỏ ra. Sở thích ăn uống là chuyện rất “cá nhân”, không có chuyện “rành ăn” hay không “rành ăn” ở đây. Chín người mười ý. Thôi cứ nấu theo ý mình, bởi vì nấu ăn cũng là chuyện “cá nhân”. 

Một bà làm cùng sở có chồng người Nhật mở một tiệm ăn chuyên về thịt gà rất nổi tiếng trên Los Angeles, một ngày kia Jane Fonda đến ăn. Jane Fonda muốn lấy da gà ra trước khi nấu và người bếp làm theo, nhưng rồi ra gặp Jane Fonda sau khi xong bữa ăn và nói vì bà lần đầu đến đây nên tôi chìu bà mà lấy da gà ra, nhưng lần tới tôi không làm như thế nữa vì đó là cách tôi nấu thịt gà, nếu bà không thích thì bà không cần phải trở lại. 

Mấy mươi năm trước khi cuộc chiến Việt Nam bùng phát dữ dội, “chị Jane” qua thăm Hà-Nội, mặc đồ bà ba, đội mũ cối, tươi cười ngồi trên dàn súng phòng không. Dĩ nhiên là chị được chiêu đãi hoành tráng, nhưng không biết có thịt gà không và “chị Jane”có bảo họ bỏ da gà ra vì ăn da gà không tốt cho sức khỏe của chị! 

Ngày xưa, người ta nhớ tới Ông Đồ Già mỗi lần Tết đến, ngày nay mình nhớ mấy cái YouTube của những nhóm sinh viên ở Sài-Gòn, tụ lại với nhau nấu bánh chưng bánh tét rồi đêm đến đem phân phát cho những người không nhà không cửa sống lây lất trên vĩa hè. Thấy người nào cũng vui, cũng đẹp và gói bánh cực kỳ giỏi. Chỉ mong một ngày nào về cùng gói bánh với họ, rồi theo họ đi “giao hàng”. Mình không biết gói bánh tét nhưng chắc học cũng mau thôi vì đã có “căn bản” rồi. Và chắc là sẽ rất “vui”.

**


Ông
manager phụ trách một shopping center của công ty vừa ghé lại hỏi tại sao không ghé lại lấy cái nồi đã để sẵn ở office của Ông. Có một tiệm ăn ở shopping center nầy dọn ra nhiều năm trước để lại nhiều vật dụng, trong đó có cái nồi nấu xúp rất lớn mà Ông giữ lại để dành cho mình, đủ để nấu mười mấy cái bánh chưng mà không sợ nước tràn ra ngoài và khỏi phải canh chừng để châm thêm nước mỗi vài giờ. Ông tử tế vì ông là người…tử tế, không phải vì có lần ông ghé qua bàn công chuyện, thích tấm ảnh hai vợ chồng đang bắt ốc giữa giòng sông Irrawaddy ở Miến Điện mình phóng lớn treo trên tường và muốn một tấm, rồi mấy hôm sau ghé lại cám ơn tấm hình nhận được, thấy cái khung hình trống trơn nằm trong góc phòng. Ông nói năm nầy cho ông một cái để biết nấu cái gì mà năm nào cũng hăm hở nấu. Chắc gói riêng cho ông một cái nhỏ thôi, vì nghe đâu ông ở một mình sau ba lần ly dị.


blank

Sông Irrawaddy, Miến-Điện.


Tuần rồi mấy ông tướng Miến-Điện lại đảo chánh. Đây là xứ sở Phật Giáo, với những ngôi chùa đồ sộ thay lớp vàng dát trên tháp mỗi bốn năm, với cả hàng ngàn ngôi đền chen chúc ở Bagal. Thế mà, bên ngoài những bức tường cao kiên cố vây bọc dinh thự của mấy ông tướng là những người phụ nữ ốm yếu, đội trên đầu thúng đá vá đường với mức lương nghe đâu khoảng bốn mươi xu Mỹ mỗi ngày và còn cho là
overpaid! Những ông tướng nầy và gia đình họ chắc là đi chùa, tụng kinh niệm Phật thường xuyên, thế thì họ cầu nguyện, tu tập điều gì? 



Giữa sân một khách sạn ở Mandalay, xứ sở của những ngọn núi đá cẩm thạch mà những viên tướng nầy đang cấu kết với thương lái Trung Quốc cướp bóc, có một tảng đá lớn với tấm bảng bên cạnh ghi trị giá hơn hai triệu đô la Mỹ. Nếu không cắt ra thì đó chỉ là một tảng đá thô, không ai biết cẩm thạch. Phải chi thay tảng đá vô dụng xấu xí, choán chổ nầy bằng một trường học, trường dạy nghề hay bệnh xá thì phước đức biết bao. 

Đến thăm người bạn có công ty du lịch ở Miến Điện và nhiều nước Đông Nam Á.  Anh nói anh thích người Miến nhất vì họ rất thông minh và hiền hòa. Mấy năm trước qua đây hơn một tuần mà ở trên tàu chạy dọc theo ông Irrawaddy mất mấy ngày rồi, nhưng cũng có dịp tiếp xúc với nhiều người Miến, trở về sống trên đất nước mình sau thời gian làm việc ở Singapore dù có chức vụ cao và lương bỗng hậu hĩ. Một xứ sở như thế mà chịu quá nhiều tai ương. Sau một thời gian dài tự phong tỏa, vừa khá lên chút là bị thế giới lên án vụ Rohingya, rồi COVID và nay đảo chánh…Những người làm việc cho người bạn vô cùng khốn đốn.  Mình quá hoang mang, hay là Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người…(t.c.s.)



 blank

Bagal, Miến-Điện


**


Ông
manager tử tế nhớ đến ngày Tết để cho mình mượn cái nồi nấu bánh chưng còn dạy mình không biết bao nhiêu điều: nuôi cá koi ra sao, làm cái biological filter như thế nào mới đúng để nước cho trong. Có lần làm cây cầu bắt qua hồ cá, chỉ mua gổ, design chút ít rồi đem vào nhờ ông cắt, mình chỉ đem về đóng lại, sơn lên là xong. Nhưng ông đâu phải là người tử tế duy nhất ở đây. Ở đây ai cũng tử tế. Mình ngồi thấp mà nước thì chảy chổ trũng nên may mắn mọi bề. Ra khỏi cửa bên tay phải là mấy ông kiến trúc sư, có ông giúp design cái studio của mấy người con thành hai cái sleeping compartment. Bên trái là mấy người CPA, có thắc mắc gì việc thuế má, vay nợ mới, đầu tư…cứ “vô tư” hỏi. Cách mấy phòng là chổ của mấy người luật sư, có người giúp sửa lại tờ thỏa thuận với người tông xe mình để bảo đảm là mình không gặp rắc rối về sau. Bên kia parking lot là nông trại, cần ít đất trồng cây là họ xúc vào mấy cái container đễ sẵn cho. Có lần rũ người làm vườn trồng thử dưa hấu vuông như nên Nhật coi ra sao. Ai cũng giỏi trong lãnh vực của mình mà không lấy việc hơn người khác làm mục tiêu ở đời. Nhiều khi không khỏi lo bởi mình chẳng có chi đền bù cho sự tử tế của họ. 

Chính vì thế mà đã mấy mươi năm qua, ít có ngày nào thức dậy lại không muốn vào sở làm. Có quá nhiều điều mới để được hỏi, được học, được làm hằng ngày, để cải thiện bản thân, để hơn chính bản thân hôm qua, như cái mantra một người bạn vừa text cho và đã in ra treo trên cái pc monitor: Don’t try to be perfect. Just try to be better than you were yesterday!

Đến tuổi nầy “mà lòng phơi phới dậy tương lai (t.h.)” thì mất nết quá. 


**


Mấy tháng ở trại tỵ nạn sau khi tàu chìm tạt vào Thai Lan là dịp Tết. Thấy có gia đình bên cạnh sửa soạn nấu bánh chưng nên hỏi xin mượn cái thùng khi họ nấu xong. Cái khuôn thì đã có rồi, làm bằng một miếng gổ lấy từ chiếc tàu mình đi vượt biên bị vỡ chìm nằm nửa trên nửa dưới trên bờ và vẫn còn giữ tới bây giờ. Người hàng xóm có cái nồi nấu bánh chưng, nghe giọng mình nặng nề trọ trẹ, nói: “thôi cậu ơi, bày đặt học nấu bánh chưng làm gì cho mất công. Bánh chưng là của chúng tôi. Để tôi nấu xong cho mấy cô cậu một cái ăn cho biết…” Không thể không đồng ý với ông hàng xóm nầy, ẩm thực là vấn đề văn hóa. Thử tưởng tượng mình học được cách nấu phở, bạn bè đến ăn khen ngon khuyên nên mở tiệm kẻo bỏ phí “tài năng”, thế là mở tiệm phở, lại còn treo một cái bảng quãng cáo “
Phở Bắc chính gốc” thì có chướng không. Như có người đã nói như thế nầy khi so sánh phim cao bồi Mỹ với phim cao bồi Ý: “Phim cao bồi Ý súng nổ nhiều hơn, đào đẹp và sexy hơn, ngựa phi nhanh hơn…nhưng thiếu một thứ không bao giờ có thể có: bụi Texas…

Nhưng bánh chưng thì có thể là chuyện khác, ngoại lệ. Người hàng xóm nấu xong gọi qua lấy thùng và cho một cái bánh chưng. Tới phiên mình nấu xong đem thùng qua trả và “lại quả” ông một cái. Không nghe ông nói chi về bánh chưng từ đó…  


 **


Đi ra
park có sân tennis đánh vào tường kiếm chút mồ hôi trước khi tới sở làm. Mừng gặp lại hai anh Việt-Nam hiền lành, vui vẻ.

Đây là hai người mình gặp lần đầu ở đây mấy tuần trước. Một anh đứng nhìn mình tự tập một hồi lâu rồi bước đến nói mình đánh sai ở chỗ nào, tại sao sai. Chi cũng sai cả: forehand, backhand, volley, drop shot, down the line…Té ra, đánh đã mấy chục năm, đọc bao sách vở, coi bao nhiêu video mà vẫn không biết cái sai, cái dở của mình. Từ đó, mỗi khi ra đây may mắn gặp anh, anh chỉ dạy tận tình. Có khi mình đánh trả lại bị hư, banh ra ngoài hay dính lưới, anh lại còn xin lỗi, nói là tại anh đưa banh qua không chính xác! 

Anh kể vừa mới đươc chích COVID vaccine dù anh chưa tới sáu mươi lăm tuổi vì anh đưa đón bệnh nhân tới phòng mạch hay nhà thương  nên có phòng mạch nào đó cho anh chích. Chắc anh làm thiện nguyện thôi, có lần anh nói anh về hưu rồi vì không có “nhu cầu”. Nói chuyện vaccine rồi qua chuyện Pfizer, Moderna stock. Anh nói mỗi ngày anh mua bán năm bảy cổ phần cho vui thôi. Mới đây, anh có một niềm vui lớn hơn. Anh mua Moderna $140 một cổ phiếu và bán lại $120, chỉ lỗ có $20 một cổ phiếu thay vì lỗ $35 vì trước đó một ngày Moderna xuống còn $105.

Cần đi đâu cho xa để tìm Bồ Tát!


**


Từ nhiều năm nay, chổ làm luôn tổ chức một “sự kiện” rất lớn cho ngày Tết,
Lunar New Year, không phải Chinese New Year. Năm ngoái có cả một ngàn năm trăm người được mời. Rất may mắn vì COVID sập tới chỉ một tuần sau đó. 

Năm nay, vì không thể tổ chức “sự kiện” nên họ làm một cái virtual show và người phụ trách hỏi là nên làm gì cho phần của  cộng đồng Việt-Nam. Đề nghị họ mời vài ca nhạc sĩ Việt-Nam ở đây trình diễn bài Ly Rượu Mừng.  Có phần phụ đề tiếng Anh, để người của các nền văn hóa khác nghe người Việt chúng tôi chúc gì nhau trong ngày Tết, ngày thiêng liêng nhất trong mỗi một người chúng tôi.


Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
Nhấp chén đầy vơi
Chúc người người vui
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đầy chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đàng
Chiến đấu công thành
Sáng cuộc đời lành
Mừng người vì Nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.