Hôm nay,  

Giới thiệu sách "Việt Nam Tân Sử" của Christopher Goscha

22/04/202313:55:00(Xem: 1978)
Điểm sách

gosha

Vietnam, A New History (Việt Nam Tân Sử), trên 500 trang, Basic Books (2016) của Christopher K. Goscha, giáo sư ở Đại Học Québec tại Montréal, Montreal, Canada.


Tác giả (sinh 1965) từng học và nghiên cứu ở Mỹ, Úc, Pháp về lịch sử thời thuộc địa và hậu thuộc địa của vùng Đông Nam Á; từng trải nhiều năm tìm tòi ở Thái Lan, Lào, Việt Nam và học về tiếng Việt ở Đại Học Hà Nội. Luận án tiến sĩ của ông ở Pháp, “Le contexte asiatique de la guerre franco-vietnamienne : Réseaux, relations et économie (1945-1954)” được giáo sư người Việt Nguyễn Thế Anh hướng dẫn ở Đại Học Sorbonne (Paris).
     Christopher Goscha từng tìm cách nghiên cứu vấn đề Việt Nam trong bối cảnh rộng hơn của Á Châu và Đông Nam Á thay vì chỉ giới hạn trong những động cơ dân tộc chủ nghĩa Việt Nam hay phong trào chống thực dân Pháp. Trước đó, từ luận án thạc sĩ, vào năm 1999, Goscha từng xuất bản cuốn “Thailand and the Southeast Asian Networks of The Vietnamese Revolution, 1885-1954”, nói về mối liên hệ giữa cộng đồng hàng ngàn người Việt và Hoa ở Thái Lan, với một "đạo quân vô hình gồm những người buôn bán, người tội phạm, mại dâm và thuỷ thủ" và những phong trào cách mạng ở Việt Nam từ phong trào Cần Vương đến mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954. Cuốn “Vietnam, A New History” cũng tiếp tục đường lối tiếp cận đa diện, giới hạn tầm nhìn quốc gia chủ nghĩa và xét đến chiều kích địa sử ký và địa chính trị của chuyện kể Việt Nam với tầm quan trọng của vị trí của nước này giữa vùng Đông Nam Á, cũng như biên giới tiếp giáp với Trung Hoa, Lào và Cambodia. Ông cũng là tác giả một cuốn tự điển về chiến tranh Pháp Việt (1945-54); đáng chú ý là ông tự viết lấy toàn bộ cuốn sách khá đồ sộ này, xét về nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc xung đột, ông không phải chỉ là chủ biên với sự cộng tác của nhiều người khác như trong trường hợp các cuốn từ điển khác (Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954): An International and Interdisciplinary Approach (Hardcover) by Christopher E. Goscha (2012)).
     Nguyên thuỷ, do nhu cầu của càng ngày càng nhiều người biết đến và viếng Việt Nam, tác giả được nhà xuất bản Penguin yêu cầu viết một cuốn sử về Việt Nam hiện đại, nhưng lúc hoàn thành cuốn sách bao gồm các khoảng thời gian trước thời hiện đại, và cuốn “The Penguin History of Modern Vietnam” gặt hái được nhiều ca ngợi và giải thưởng. Cuốn sách được xuất bản ở Mỹ với tên “Vietnam, A New History” và bìa khác. Sách được giải thưởng John K. Fairbank về Lịch sử Đông Á năm 2017 của Hội Sử Học Hoa kỳ (American Historical Association).
     Có lẽ vì tác giả chuyên nghiên cứu về các vấn đề chiến tranh lạnh, chiến tranh Đông Dương và các vấn đề xuyên quốc gia ở Đông Nam Á, phần nói về lịch sử Việt Nam trước thời cận đại chỉ chiếm một phần nhỏ trong cuốn sách, trong chương đầu "Northern Configurations" gồm 32 trang. Nói về tiếng Việt trong thời kỳ Bắc thuộc, Goscha viết “Hàng ngàn người Tàu đến vùng châu thổ định cư trong giai đoạn thuộc địa, đem theo với họ một tập hợp tư tưởng, công nghệ và từ ngữ mới. Hôn nhân cùng với dân địa phương xảy ra thường xuyên, cũng như những đứa con hai dòng máu và tình trạng song ngữ. Giống như tiếng Anh Trung đại (Middle English) phát sinh từ việc người Norman [con cháu người Vikings, định cư vùng Normandie, bắc nước Pháp] chiếm nước Anh vào thế kỷ thứ 12, một ngôn ngữ An Nam trung đại (Middle Annamese) khởi phát ở các thành phố Việt Nam thời thuộc địa, cho phép nhiều từ ngữ tiếng Hoa đi vào ngôn ngữ Việt vào thời đó” (trang 19). Lối giải thích này có điểm giống Keith Taylor ở điểm cho rằng một loại “Middle Annamese” khởi phát từ các “thị xã" của An Nam thời đó từ những người Tàu định cư lập gia đình với người Việt, con cháu họ lai Việt và cộng đồng này dùng hai thứ tiếng (song ngữ) một cách phổ biến.
     Trong tiếng Anh thời trung đại (Middle English), bắt đầu với sự xâm chiếm của người Norman (1066), và kéo dài đến thế kỷ thứ 15 để chuyển qua thời cận đại, ngữ pháp tiếng Anh cổ được giản dị hoá hay phế thải, một số lượng lớn các từ ngữ tiếng Pháp được du nhập trong các lãnh vực luật pháp, chính trị, nghệ thuật, tôn giáo và tiếng Anh dùng trong triều vua. Thời ban đầu của giai đoạn này không sản xuất được bao nhiêu về văn chương vì vị thế tiếng Pháp cao hơn, có uy tín hơn nên người ta chuộng viết bằng tiếng Pháp hơn tiếng Anh. Có lẽ Goscha muốn nói tiếng Việt “An Nam trung đại” cũng thành hình từ những người song ngữ du nhập tiếng Tàu vào tiếng địa phương, tuy tiếng Tàu vẫn giữ địa vị cao hơn trong giới “elite” học thức và biết đọc biết viết.
     Nội dung nặng về chính trị, nhất là địa chính trị và đặt lịch sử Việt Nam vào bối cảnh của vùng Đông Nam Á và thế giới. Chúng ta ít được đọc về các chiến tích của người Việt và những anh hùng (như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão), hay những địa điểm (như Bạch Đằng, Diên Hồng, Vạn Kiếp) mà chúng ta tự hào và còn nhớ tên qua các con đường ngày xưa qua các đô thị ở miền Nam. Những trận đánh của Trần Hưng Đạo chống quân Mông Cổ chẳng hạn, ít được đề cập. Tác giả nhắc đến sự đe doạ đường bộ cũng như đường biển của quân Mông Cổ đối với Đại Việt cũng như đối với vương quốc Chăm vào thế kỷ thứ 13 và nói người Chăm cùng với người Việt cùng nhau ngăn chặn quân Mông Cổ ở trên sông Hồng. “Do đó họ [người Việt] phải kết hợp với những người cạnh tranh với họ ở vùng duyên hải (người Chăm) để đẩy lui những tấn công còn mạnh hơn nữa của người Mông Cổ. Người Chăm và người Việt chặn được chúng ở trên sông Hồng trong lúc người Nhật và người Java thực hiện việc này về phía biển.”
     Chiến thắng quân nhà Thanh Trung Hoa năm 1789 của vua Quang Trung cũng chỉ được nhắc qua bằng một câu: “Trong một chiến thắng lịch sử ngày nay còn được ăn mừng, Quang Trung trục xuất người Tàu và cai trị Đại Việt từ Hà Nội cho đến lúc ông mất năm 1792 (trang 43). Tuy nhiên, tác giả so sánh tác dụng biến đổi của Tây Sơn trên nước Việt Nam tương tự như tác động của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa thế kỷ thứ 19. “Anh em Tây Sơn cưỡi trên một ngọn sóng bất bình ào ạt của dân chúng, tạo nên những liên minh thực tiễn với các nhóm không phải gốc Việt, biết dùng các mạng lưới tôn giáo, và khai thác các nhóm cướp bóc, tội phạm ở ngoại biên xã hội và thành công lớn lao. Cơn cuồng nộ xã hội mà họ giải phóng cũng như sự tơi tả của các đơn vị chủ quyền mà họ để lại đằng sau có tác dụng biến đổi ngang với những gì mà Thái Bình Thiên Quốc thực hiện được ở Trung Hoa. Bằng cách diễu hành từ một đầu này qua đầu kia của Việt Nam, Tây Sơn mở đường cho một quốc gia thống nhất rộng hơn, do miền nam chủ đạo, được Gia Long đảm đương lúc cuối cùng ông chiến thắng Tây Sơn năm 1802” (trang 44).
     Tác giả không muốn trình bày sử Việt Nam qua một quá khứ bị trị, bị thực dân đô hộ, là một chuỗi chiến tranh ở một mảnh đất có vị trí chiến lược, địa chính trị, luôn luôn bị thèm muốn, trong đó Việt Nam thụ động như là một nạn nhân, theo như ‘narrative’ [chuyện kể] của các thế lực lớn. Ngược lại, tác giả muốn trình bày Việt Nam như là một tác nhân (actor) tích cực trong sự nhào nặn ra lịch sử của chính mình. Một khía cạnh khác, trong quá khứ đã hiện hữu không chỉ một nước Việt Nam, mà nhiều nước Việt Nam khác nhau, như Đàng Trong và Đàng Ngoài thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, nước Việt Nam hình chữ S của thời Gia Long thống nhất sơn hà, Việt Nam đế quốc thời Minh Mạng...
     Tác giả nhấn mạnh chính Việt Nam đã từng là một đế quốc (đối với Miên, Lào) và từng bành trướng từ thung lũng sông Hồng lan đến tận mũi Cà Mau. Tác giả phân biệt từ “Viet” để chỉ người Kinh [đa số], tương tự như người Hán để chỉ người Tàu đa số, và từ “Vietnamese” để bao gồm tất cả sắc tộc, sắc dân đa số hay thiểu số [như Chăm, người gốc Hoa, gốc Khmer] sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
     Các biến chuyển văn hoá được bàn đến một cách rộng rãi. Chương 12 dành trên 30 trang sách cho “Thay đổi văn hóa trong thế kỷ 20 dài”, ngoài những tên tuổi như Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Chu Trinh... còn nhắc đến những nhân vật ít thấy trong sách sử như nhạc sĩ Phạm Duy; Trịnh Công Sơn; Nhã Ca, nữ tác giả của Giải Khăn Sô Cho Huế (1969); Nguyễn Cát Tường tác giả áo dài “Le Mur”; kèm theo trích đoạn của bài thơ tình già của Phan Khôi, đoạn đầu bài thơ “Xa cách” (Still too far away) của Xuân Diệu và một đoạn thơ khác của Trần Dạ Từ (chồng của Nhã Ca, in sai là Tran Da Thu): Some gifts to express my love. Nói về văn nghệ sĩ, trong chương 11 bàn về quá trình thống nhất Việt Nam (Toward One Vietnam), một điểm thú vị khác là văn chương phản chiến ở miền bắc năm 1963 được nhắc đến qua Phù Thăng (Phu Thang, 1928-1996) với cuốn tiểu thuyết “Phá vây” (Breaking the Siege) nói về nỗi khổ trong chiến tranh chống Pháp, với tư tưởng tác giả Phù Thăng bị ảnh hưởng của phong trào sống chung hoà bình Khrushchev đề ra năm 1956.
     Cũng trong chương 11, hình ảnh Tổng thống Ngô Đình Diệm được trình bày khác với cuốn sách nổi tiếng thời đó Fire in the Lake (1972) của tác giả phản chiến Frances FitzGerald, sách được giải Pulitzer của Mỹ và mô tả Tổng thống Ngô Đình Diệm như là một con rối của Mỹ, không khác gì vua Bảo Đại. Goscha viết:
     “Vấn đề đối với người Mỹ thời đó, tuy nhiên, lại là Ngô Đình Diệm không phải là một con rối (puppet, bù nhìn). Nhà lãnh đạo dân tộc có đầu óc tự chủ mãnh liệt này nhiều lần cưỡng lại sự khuyên bảo của Mỹ. Ông ta và em ông ta, ông Ngô Đình Nhu, có ý kiến riêng của họ về xây dựng quốc gia, cải cách ruộng đất, và chống nổi dậy. Và cùng nhau, họ lắm khi làm những người Mỹ ủng hộ họ phải điên lên. Như một nhà ngoại giao từng ở Sài Gòn thời đầu thập niên 1960 sau này tóm tắt về các khó khăn lúc thương lượng với gia đình nhà Ngô: ‘Thì cũng giống như phải đối phó với một tá [người muốn khẳng định và bảo vệ chủ quyền quốc gia họ như tướng Charles] de Gaulle [của Pháp sau thế chiến thứ 2]’”.
     Chương cuối mang tựa đề: Chủ nghĩa độc tài, chủ nghĩa cộng hòa và thay đổi chính trị (Authorianism, Republicanism and political changes). Theo định nghĩa, Cộng hòa là một quốc gia trong đó quyền lực cao nhất nằm trong tay của người dân và những đại diện được họ bầu ra, với một tổng thống hay chủ tịch được chỉ định hay bầu ra thay vì một ông vua như trong chế độ quân chủ. Có vẻ như tác giả dùng từ Chủ nghĩa cộng hòa" [Republicanism] để chỉ những phong trào mà trong báo chí hải ngoại thường gọi là “Dân chủ đa nguyên (Pluralism), bao gồm những nhân vật từ gần trăm năm trước như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thái Học cũng như những người đương thời như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, nữ văn sĩ Dương Thu Hương và nhóm nhân sĩ ký tên vào bản kiến nghị gởi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam trước ngày họp đại hội năm 2016. Câu hỏi cuối sách là không biết những nhóm bảo vệ xã hội dân sự này sẽ vẫn chỉ là những tiếng nói rời rạc, hỗn độn hay họ sẽ hoà hợp với nhau để làm mới nước Việt Nam hay để tạo thêm một nước Việt Nam khác nữa. 
     Nói chung, “Vietnam, A New History” là một trong những cuốn sách sử Việt đáng chú ý gần đây do một sử gia chuyên nghiệp viết bằng tiếng Anh. Khác với những cuốn sách khác về sử Việt Nam như “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, hay trong tiếng Anh “A History of the Vietnamese” của Keith W. Taylor, cuốn sách này không trình bày đồng đều về các thời đại khác nhau của lịch sử chúng ta đi từ thời cổ đại cho đến thời hiện nay. Như một người điểm sách Mỹ sống tại Việt Nam nhận xét (Justus Pendleton) tác giả dành phần lớn các trang sách cho thời cận đại khoảng 1900-1980, cũng như không thấy dùng nhiều những nguồn tham khảo gốc bằng tiếng Việt, dùng những từ tiếng Việt mà không bỏ dấu (trong lúc tiếng Pháp thì bỏ dấu đàng hoàng) chứng tỏ tác giả có vẻ bàn về những điểm mà mình thích và có sẵn tài liệu hơn là cố tình viết một cuốn sử bao quát về Việt Nam.
     Tuy nhiên, đây cũng có thể là một điểm mạnh cho cuốn sách. Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.

 

– Hồ Văn Hiền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tối Thứ Bảy 15-4-2023 nhiều đồng hương vùng Dallas tiểu bang Texas đã đến dự đêm nhạc Sài Gòn Mơ Ngày Hội Ngộ, diễn ra tại phòng sinh hoạt của thương xá Asia Square Times, thưởng thức những ca khúc thương nhớ Sài Gòn, Vượt Biển của nhạc sĩ Trần Chí Phúc đến từ Nam Cali...
Mấy tháng đầu năm 2023 này sao mà mưa bão liên miên... Làm như thiên nhiên muốn bù đắp cho tình trạng hạn hán kéo dài cả thập niên trước đây ở tiểu bang Cali. Dường như không hẳn thế mà xem ra còn ngược lại: Đợt biến động khí hậu này liên tiếp cũng đã và đang gây nên quá nhiều thiệt hại trên hầu hết các vùng của lãnh thổ Hoa Kỳ, đe dọa nặng nề đến môi trường sống của toàn thể dân cư nữa!
“Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành đau khổ. Nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành tình yêu”. – Franz Schubert.
Chiến tranh ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều giống nhau, nó như những hạt giống gieo trên mặt đất, nhưng điều khác biệt là hạt giống nẩy mầm và nuôi sống loài người, còn bom đạn gieo xuống tàn phá và giết chết loài người, hay để lại những hố sâu trên mặt đất và những vết thương không bao giờ lành trong tâm hồn mỗi con người. Nhưng vết thương không lành là những vết thương đau nhất và cũng "đẹp nhất." -- Trần Mộng Tú.
Đã qua thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI, nền văn minh cơ khí vẫn liên tục phát triển với nhà cao tầng, đường cao tốc, phương tiện làm việc và sinh hoạt đều sử dụng máy móc, ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày của mọi người, tạo nên một nếp sống, nếp nghĩ phù hợp. Giữa bộn bề khói bụi, có ai lắng hồn nhớ lại một thuở thanh bình ngày xưa, nghĩ về cảnh “ hôm qua tát nước đầu đình…” “trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa…” “Trời mưa trời gió, đem đó ra đơm, chạy về ăn cơm, chạy ra mất đó…?”
Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…
Hơn 20 năm trước tôi gặp Trần Hải Sâm, khi cô còn là sinh viên ban thạc sĩ của Đại học Oregon, là một cô gái đã tốt nghiệp ngành cổ sử Đại học Quốc gia Hà Nội với dáng nét trẻ trung, tính tình vui vẻ, cởi mở. Sau này Sâm trở thành bà xã của Luật sư Đinh Ngọc Tấn, một bạn trẻ đã cùng tôi tổ chức nhiều hội thảo từ sân trường đại học và trong sinh hoạt cộng đồng vùng Vịnh San Francisco...
Câu chuyện dưới đây về Đức Đại Mục Kiền Liên là một đệ tử giác ngộ của nhân vật lịch sử Đức Phật Thích Ca, du hành đến một thái dương hệ xa xôi và đến một hành tinh gồm những cư dân khổng lồ, tại đó cũng có một vị Phật cùng những đệ tử đang tụ tập theo sự hướng dẫn của vị Phật này...
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Tác phẩm Thế Sự Thăng Trầm của Trần Bảo Anh, dày 280 trang, gồm các bài viết: Đẹp & Xấu, Thời Gian Hiện Tượng & Sự Tái Diễn, Từ Chối, Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng LĐ 258 TQLC, Chiến Thắng Phượng Hoàng, Ảnh Hưởng Của Lời Nói, Nói Chuyện Anh Hùng, Tôi & Ý Trời, Những Chuyện Can Đảm Cổ Kim, Cách Suy Nghĩ Của Một Người Công Chức, Lương Tâm & Lòng Tận Tụy, Bằng Trời Bằng Bể, Yêu & Rất Yêu, Đang Ở Nơi Khác, Đắc Thế Thất Thế & Tư Cách…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.