Thơ 30 Tháng Tư 1975 - Chuyện Thơ Người Đánh Trận Xuân Lộcthơ Thơ

08/05/201000:00:00(Xem: 15735)

Thơ 30 Tháng Tư 1975

chuyện Thơ Người Đánh Trận Xuân LộcThơ Thơ

Hình trên: Bìa cứng thi tập “Tháng Tư, Lính Không Cần Hớt Tóc”, thơ Nguyễn Phúc Sông Hương. Ông sinh năm 1941. Năm 1966, với bút hiệu Thái Luân, từng xuất bản tập “Vùng Tủi Nhục”, thơ phản chiến, có bài “Bi Hài Kịch”, Phạm Duy phổ nhạc trong “Tâm Phẫn Ca”. Sau thảm cảnh người dân Huế bị CS chôn sống trong dip Tết Mậu Thân, nhiều tỉnh thành làng xóm miền Nam bị tàn phá vì chiến tranh do CS gây ra, Bút hiệu Thái Luân đã đi vào bóng tối. Nguyễn Phúc Sông Hương  thực sự ra chiến trường.  Trước giờ thứ 25 của Saigon, nhà thơ là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Sư Đoàn 18 BB, người trực tiếp cầm tiểu đoàn dự trận Xuân Lộc ngày 29 Tháng Tư. Thi tập “Tháng Tư, Lính Không Cần Hớt Tóc” là thứ thơ đích thực của người lính làm thơ.
Trang thơ trích, tự thơ họp lại thành chuyện thơ Xuân Lộc. Sau 30-4-75, nhà thơ lính đi tù gần 10 năm.

Mặc kệ ai
bỏ nhà bỏ nước
 
(Kíng tặng Thiếu Tướng Lê Minh Đảo)
 
Chiều 29 tháng tư,  Tư Lệnh hỏi:
Tiểu đoàn em còn lại bao nhiêu"
Về Long Bình có ai đào ngũ"
Đạn dược mang theo được ít nhiều"
 
Dạ, Tiểu đoàn còn ba trăm bảy,
Với đầy cấp số đạn trên lưng,
Không ai khai bệnh, không đào ngủ
Thừa sức chờ chơi trận cuối cùng.
 
Cùng Thiết Đoàn 5 trụ Tân Hiệp
Đợi chờ bắn cháy bọn xe tăng,
Mười hai giờ khuya, vang trong máy
Huấn lệnh gì đâu thật lạ lùng!*
 
 Chiều nay đôi mắt Tư Lệnh đỏ
Mình tưởng giống mình mất ngủ thôi.
Bây giờ mới biết vì đau khổ
Thượng cấp bỏ đi, chạy hết rồi.
 
Dạ, Tiểu Đoàn còn ba trăm bảy
Toàn những thằng em rất chịu chơi.
Mặc kệ ai bỏ nhà, bỏ nước,
Còn lính gan lì Tư Lệnh ơi!

(*) Lời giã từ của Tướng Vĩnh Lộc,
    Tân Tổng Tham Mưu Trưởng.
 
 
Nửa hồn Xuân Lộc

(Kính tặng quý chiến hữu SĐ 18,  anh chị LH,
ông Nhữ Văn Úy, Cựu dân biểu VNCH)
 
Nếu được như bố già thượng sĩ
Nghe tin lui quân, ngước nhìn trời,
Ném bi đông đế, cười khinh bạc
Chắc hẳn lòng ta cũng thảnh thơi.
 
Còn ta nhận lệnh rời Xuân Lộc,
Lại muốn tìm em nói ít lời,
Nhưng sợ áo mình đầy khói súng
Cay nồng đôi mắt gục trên vai,
 
Giây phút cầm tay em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính biết bao người,
Ta biết dù tim mình sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.
 
Mây xa quen kiếp đời phiêu bạt,
Bỏ núi ra đi cũng ngậm ngùi,
Huống chi bóng với hình tha thiết;
Hình nghiêng chao đổ, bóng chơi vơi!
 
Bí mật lui quân nên đành phụ
Mối tình Long Khánh, tội người ơi!
Cao nguyên bài học đầy xương máu;
Một bước chân đi một xác người!

Sáng mai thức dậy em buồn lắm
Sẽ khóc trách ta nỡ phụ rồi.
Lòng ta như trái sầu riêng rụng
Trong vườn em đó vỡ làm đôi.
 
Bao nhiêu gai nhọn sầu riêng đó,
Ta sẽ quỳ lên chịu suốt đời!
Nếu thật lui quân là bại trận
Thì ta nhất quyết chẳng xa người.
 
Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết;
Một mãnh khăn tang khóc giống nòi!
Chân theo quân bước hồn ta ở
Sông nước La Ngà  pha máu sôi.
 
Trách mình quên rót ly từ giả
Những hồn anh kiệt đã nằm nơi...
Ôi cuộc giao tranh buồn bã quá,
Hạ bao nhiêu địch vẫn không cười.
 
Nếu được tràn quân lên Định Quán,
Đánh vùi một trận để đời vui.
Núi Chứa Chan kia sừng sừng đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui"
 
Ngựa lồng bãi chiến mà không hí,
Phải chăng ngựa chiến đã tàn hơi"
Tay vung kiếm bén mà không chém.,
Phải chăng kiếm chủ chẳng còn người"
 
Không! không! ta hiểu lòng ta lắm
Sông núi bao ngày đã tả tơi!
Người lính miền Nam đi chiến trận
Luôn khắc trong tim nghĩa giống nòi.
 
Bước chân lững thững vào Quân sử,
Nghe trống trận xưa giục liên hồi!
Đây giáo Chi Lăng, gươm Vạn Kiếp,
Tiếng hò đuổi giặc dậy ngàn nơi.
 
Đạp chốt nghe đau lòng tĩnh lộ,
Nhìn lui, lữa đỏ nhuộm góc trời,
Cao su trùng điệp rừng che mộ,
Thị trấn hoang tàn, pháo địch rơi...
 
Em ơi Xuân Lộc, ơi Xuân Lộc,
Người lính hôm qua tạ lỗi Người.
Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
Gọi giữa đêm dài sợ lẻ loi.
Chân bước nửa hồn chinh chiến giục,
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui!
Dưới hầm, ta biết em đang khóc,
Thét, gầm...pháo địch dập không thôi!
 
Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
Xích sắt nghiến qua những xác người!
 
 

Chén cơm làng
Long Thạnh Mỹ
ngày 30/4.
 Tiểu Đoàn hai hàng đều bước
Tay không súng đạn,
Vẫn ngước cao đầu,
Dân làng bên đường
Vỗ tay chào đón,
Người được thắng trận
Ngơ ngác nhìn nhau.
 
Ba trăm người sát vai ngồi xuống,
Cởi giày, vắt vớ, nói, cười.
Nghe trong đám đông
Tiếng ai sụt sịt
Các chú lính ơi!
 
Mẹ già đem cơm, canh, cá,
Các con ăn nhiều cho no,
Nhìn bầy con ăn ngon quá,
Mẹ vui, cảm động khóc òa.
 
Sư già rộng mở cửa Phật,
Đêm nay thầy không thĩnh kinh
Các con vào chùa yên ngủ*
Quên ngày gian khổ chiến chinh.
 
Chuyện xưa nhiều khi nhớ lại,
Tưởng chừng như mới hôm qua,
Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ
Chan canh với hạt lệ nhòa...
 
*Chùa xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức
 


Lẽ ra phải chết
tại Sài Gòn.
 
Từ khi bỏ tuyến thép Xuân Lộc
Tiểu đoàn còn lại hơn ba  trăm
Lội ruộng, băng đồng về tiếp cứu,
Tiếc thay chưa đến được Sài Gòn!
 Sài Gòn đã mất, tay còn súng
Anh em muốn kéo hết lên rừng.
Ta lắc đầu: đừng thêm máu đổ,
Họ với mình đều là Việt Nam.
 
Rồi tự đun đầu vào cửa ngục
May ra được làm kẻ... đàng hoàng!
Mười năm tù ngục ta thường hỏi
Họ với mình cùng là Việt Nam"
 
Tại sao lại dừng chân, buông súng"
Tại sao không chiếm lại Sài Gòn"
Lẻ ra đừng bao giờ buông súng
Lẻ ra phải chết tại Sài Gòn.

Nguyễn Phúc Sông Hương
(Trích “Tháng Tu, Lính Không Cần Hớt Tóc”

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong mơ tưởng của tôi/ Âm thanh những sợi mỏng nhịp nhàng. Neo trên cùng một nhịp. Ngày và Đêm. Giấc mơ và thành tựu. Anh và em./ Trong mơ tưởng của tôi / Ánh sáng rực rỡ sóng, run trong ngực viên đá bổn mạng đại dương xanh. Nhốt vào sâu thẳm tiếng đập sóng gió. Tôi trôi. Phập phồng điểm hẹn. Nhịp vui trái tim đẩy dòng chảy thời gian rộn ràng trong mạch máu./ Trong mơ tưởng của em. Thương khó một mùa gặp gỡ. Dẫu bước chân em giờ như chiếc lá khô lăn theo năm tháng. Mộng mơ là cuống mỏng manh. Nuối nhìn mắt gió.
Các nhà thơ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 21 đã góp phần tạo nên sự sinh động, thay đổi diện mạo thi ca Việt Nam. Thế giới ngày nay như một tảng băng đang trôi dần về vực lửa, nơi đó ranh giới của thiện ác phải trái trở nên mù mờ, lòng người bị phân chia bởi trăm ngàn biên giới, mọi niềm tin thành nghi hoặc. Trên tảng băng đang tan ấy, thi ca của lớp nhà thơ nữ này như một bến bờ để neo lại những phân rã, để hiệu đính lại những phù phiếm, sai lầm của định kiến, bằng cái nhìn sắc xảo, thực tế, táo bạo, thách thức. Thi pháp hiện đại, được thể hiện qua ngôn từ mới mẻ và hình ảnh đầy sáng tạo. Sức thuyết phục của họ dường như nằm ở then chốt Cảm Xúc Thi Ca, một thứ cảm xúc dịu dàng của nhân ái, tràn trề của tự do, kiêu hãnh của độc lập, ngang tàng của bức phá, cho người đọc thấy được một cái Tôi-Nữ-Tính đầy tự tin, lấp lánh nữ quyền. Nói có vẻ nghịch lý, nhưng, chính niềm tự tin, phóng khoáng ấy lại khiến thơ của họ mang chất thơ ngây và gợi cảm.
Muốn sống hạnh phúc thì phải xa lìa mộng ảo. Chứ không phải chạy theo huyễn hóa của đời. Như Phật dạy trong Kinh Bát Nhã: “Điên đảo một khi đã viễn ly, Thì Niết Bàn hiện ra ngay trước mắt.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.