Hôm nay,  

“Túp Lều Của Chú Tom” Và Một “Chú Tom” Có Thật Ở Trên Đời

8/16/202400:00:00(View: 1653)

uncle-tom cover
Vài tuần sau khi Harriet Beecher Stowe gặp John Andrew Jackson, bà bắt đầu phác thảo Túp Lều của Chú Tom.
 
John Andrew Jackson vừa chào đời đã mang phận nô lệ, và được định sẵn là sẽ dành trọn kiếp sống tủi nhục trên những cánh đồng bông vải ở Nam Carolina.
 
Nhưng, không cúi đầu trước số phận, Jackson đã thoát khỏi cảnh nô dịch, trở thành một diễn giả và văn nhân có ảnh hưởng lớn đến phong trào bãi nô. Ông cũng là nguồn cảm hứng cho tác phẩm kinh điển Uncle Tom's Cabin (Túp Lều của Chú Tom) của Harriet Beecher Stowe, xuất bản năm 1852. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về chế độ nô lệ này được nhiều sử gia đánh giá là đã góp phần thúc đẩy cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ.
 
Susanna Ashton, giáo sư Anh ngữ từ Đại học Clemson, là một học giả nghiên cứu về những phận đời nô lệ và các tác phẩm của họ. Bà đã dành nhiều năm để nghiên cứu về Jackson và thấy khó hiểu về việc ông ít được nhắc đến trong hầu hết các tài liệu lịch sử về chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ.
 
Cuốn tiểu sử về Jackson của giáo sư Ashton, có tựa đề là “A Plausible Man: The True Story of the Escaped Slave Who Inspired Uncle Tom’s Cabin” (xin tạm dịch là “Người Thật, Việc Thật: Chuyện Người Nô Lệ Khơi Nguồn Cảm Hứng Cho Túp Lều Của Chú Tom”) sẽ kể về cuộc đời đầy sóng gió mà cũng đáng kinh ngạc của một “chú Tom” trong đời thực.
 
Hướng về phía bắc tự do 
 
uncle-tom
Nghiên cứu mới làm sáng tỏ John Andrew Jackson, người đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Harriet Beecher Stowe trong quá trình trốn thoát khỏi chế độ nô lệ vào khoảng năm 1825.  Nguồn: Wikimedia Commons
 
Vợ và con gái của Jackson cũng là nô lệ, nhưng thuộc sở hữu của một chủ đồn điền khác. Năm 1846, họ bị buộc phải chuyển đến Georgia cùng chủ nô. Đau khổ và phẫn nộ trước cảnh gia đình ly tán, ông quyết tâm kiếm tiền để mua lấy tự do cho gia đình mình. Vì vậy, Jackson có một kế hoạch liều lĩnh và táo bạo: chờ đến ngày Giáng Sinh, dùng ngựa để trốn đi. Sau đó, ông tìm được việc làm tại bến tàu ở Charleston, Nam Carolina, và cuối cùng núp trên một con tàu chở bông vải hướng đến Boston.
 
Sau khi đến Boston, Jackson bắt đầu tham gia diễn thuyết trong các cuộc hội họp của phong trào bãi nô trên khắp Massachusetts nhằm quyên tiền để mua tự do cho vợ con. Nhưng trước khi Jackson quyên đủ tiền, Tổng thống Millard Fillmore đã ký ban hành Đạo luật Fugitive Slave Act (Luật xử phạt nô lệ tẩu thoát) năm 1850, quy định phạt nặng những người giúp nô lệ tẩu tán.
 
Dù đang sống ở một tiểu bang được coi là tự do, Jackson vẫn có nguy cơ bị bắt đưa trở lại làm nô lệ. Ông quyết định chạy sang Canada, và được chỉ dẫn đến với những gia đình ủng hộ chủ nghĩa bãi nô tại Maine để được giúp đỡ.
 
Cuộc gặp gỡ tình cờ
 
Một trong những gia đình mà Jackson đã tìm đến là nhà của Thomas C. Upham, một triết gia tại Bowdoin College, nghiên cứu cả về tâm trí con người lẫn các vấn đề đạo đức.
 
Upham từng cho rằng dù chế độ nô lệ có sai trái thế nào thì Đạo luật Fugitive Slave Act vẫn là luật và cần phải được tuân thủ. Tuy nhiên, khi Jackson đến gõ cửa, Upham đã gạt bỏ nguyên tắc của mình, mời Jackson vào nhà, ăn uống và động viên. Vì không thể để Jackson tá túc lại qua đêm, Upham đành phải dẫn Jackson sang nhà hàng xóm của mình, tên là Harriet Beecher Stowe.
 
Stowe vừa là hàng xóm vừa là bạn bè của Upham, và vẫn luôn buồn lòng với sự thiếu quyết đoán trong quan điểm về chính trị của người bạn giáo sư tốt bụng này.
 
Vào thời điểm đó, Harriet Beecher Stowe là một nhà văn chưa có danh tiếng, chồng bà là một nhà thần học và là học giả tại Bowdoin College. Khi Jackson đến nhà Stowe, bà cũng đã phạm luật, mở rộng cửa chào đón người nô lệ trốn chạy. Jackson tá túc lại đó một đêm; chơi đùa với các con của Stowe; kể về chuyện đời bất hạnh của mình; và rời đi vào sáng sớm hôm sau với đồ tiếp tế mà bà gửi tặng.
 
Mặc dù Stowe không bao giờ nhắc đến tên của Jackson, nhưng bà từng viết về sự việc này và ghi chú rằng vị khách của bà là “một người có thật đến từ ‘Ole Carliny State’” – ám chỉ đến bài hát phổ biến mà sau này Jackson đã đưa vào hồi ký của mình.
 
“Người phụ nữ nhỏ bé”
 
Vài tuần sau lần gặp đó, Stowe bắt đầu viết tiểu thuyết “Túp Lều Của Chú Tom.
 
Trong tiểu thuyết, có một cảnh quen thuộc mà nhân vật nữ chính, Eliza, một nô lệ da đen đang trốn chạy, gõ cửa nhà của một TNS Hoa Kỳ. Vị TNS này trước đó đã hứa sẽ tuân thủ luật xử phạt nô lệ tẩu thoát. Tuy nhiên, khi một người đang sợ hãi và tuyệt vọng xuất hiện trước cửa nhà, TNS đã nghe theo con tim thay vì lý trí. Và rồi vợ chồng TNS đã bất chấp vi phạm luật để giúp đỡ Eliza. Cảnh này là một sự tái hiện lại cuộc gặp gỡ giữa Upham và Jackson ngoài đời thực.
 
Dù vậy, sự sáng tạo nghệ thuật luôn được ươm mầm bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, và quá trình sáng tác của Stowe chắc chắn cũng lấy cảm hứng từ nhiều con người và sự việc khác nhau, bên cạnh cuộc gặp gỡ với Jackson – điều đã thúc đẩy Stowe quyết định có hành động trực tiếp và cụ thể hơn thay vì chỉ tranh luận khi bàn về chủ đề nô lệ.
 
Được xuất bản vào năm 1852, “Túp Lều Của Chú Tom” đã thúc đẩy phong trào bãi nô bùng lên mạnh mẽ, và trở thành cuốn sách bán chạy thứ hai ở Hoa Kỳ trong thế kỷ 19, chỉ đứng sau Kinh Thánh.
 
Một thập niên sau, khi Stowe đến thăm Tòa Bạch Ốc vào tháng 11/1862, người ta kể rằng Tổng thống Abraham Lincoln đã nói với bà rằng, “Vậy, quý bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết ra cuốn sách khởi đầu cho cuộc chiến vĩ đại này.
 
Một đời trốn chạy
 
Trong thời gian Stowe sáng tác “Túp Lều Của Chú Tom,” Jackson phải trốn từ Hoa Kỳ sang Canada. Ông rời khỏi Maine và đến sống ở St. John, New Brunswick, trong vài năm. Với mong muốn mở rộng ảnh hưởng của phong trào bãi nô, ông quyết định rời Canada đến Liverpool, Anh, mang theo một lá thư giới thiệu do chính Harriet Beecher Stowe viết.
 
Trong suốt mười năm sau đó, Jackson đã đi diễn thuyết trên khắp Vương quốc Anh và viết cuốn hồi ký “The Experience of a Slave in South Carolina” được ra mắt độc giả vào năm 1862. Trong hồi ký, ông kể về cuộc gặp gỡ với Stowe:
 
Trong hành trình trốn chạy từ Salem đến Canada, tôi gặp được một vị bằng hữu rất tốt bụng và chân thành, cho tôi có chỗ tá túc qua đêm và giúp tôi có hành trang để lên đường. Tên của vị bằng hữu ấy là Mrs. Beecher Stowe. Bà đã cho tôi vào nhà, cho tôi ăn uống, quần áo cùng với 5 đô la. Bà cũng xem qua cái lưng đầy sẹo này, những vết sẹo sẽ đi theo tôi cho đến cuối đời.
 
Năm 1865, sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc, Jackson quay trở về với quê hương cố thổ, tiếp tục diễn thuyết và quyên góp tiền, nhưng lần này là dùng để cứu trợ cho những mảnh đời kham khổ ở Nam Carolina, họ đã thoát khỏi chế độ nô lệ nhưng vẫn đang sống trong nghèo đói, khó khăn. Ông cũng đã cố gắng quyên góp tiền để xây một trại trẻ mồ côi, một nhà thờ và một chốn nương tựa cho những cụ cao niên gốc da đen đang sống neo đơn không ai chăm sóc.
 
Mặc dù rất ít dự án trong số đó thực sự hoàn thành, nhưng những nỗ lực không ngừng nghỉ của Jackson vẫn được ghi nhận qua báo chí và các thư từ với các viên chức của chính quyền.
 
Jackson qua đời vào những năm đầu thế kỷ 20. Trước khi mất, ông đã trở thành một huyền thoại trong cộng đồng người da đen với những việc làm cao cả của mình. Một người hàng xóm của Jackson kể về ông với sự kính trọng và ngưỡng mộ. Vào những năm 1930, khi được phỏng vấn và hỏi về Jackson, Jake McLeod, một cụ nông dân gốc da đen, trả lời: “Tôi không rõ lý do tại sao ông ấy phải bỏ trốn, nhưng đám người truy đuổi chẳng thể nào bắt được ông ấy.
 
Cung Đô biên dịch
Nguồn: “The Black fugitive who inspired ‘Uncle Tom’s Cabin’ and the end of US slavery” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.