Các nhà quan sát đương thời có thể khá ngạc nhiên khi biết rằng nguồn gốc của cụm từ “affirmative action” – cụm từ chứa đầy ý nghĩa trong bối cảnh chính trị ngày nay – có vài phần bí ẩn.
Nói rộng ra, Affirmative Action (tạm dịch là Chính Sách Nâng Đỡ Người Thiểu Số) đề cập đến các chính sách và thực tiễn được thiết kế để tăng cơ hội cho các nhóm người thiểu số như người da màu trong lịch sử. Trong tuần này, quyết định của Tối Cao Pháp Viện (TCPV) về chính sách “affirmative action” sẽ đem đến những thay đổi đáng kể trong tương lai tuyển sinh ở các trường đại học trên khắp Hoa Kỳ. Vào ngày 29 tháng 6, TCPV đã ra phán quyết rằng các trường cao đẳng và đại học tư thục cũng như công lập không còn được coi chủng tộc là một yếu tố xem xét trong tuyển sinh, đảo ngược tiền lệ pháp lý trong suốt 45 năm qua.
Theo trang New York Times, phán quyết này có thể sẽ khiến cho số lượng ghi danh của các sinh viên người gốc và La-tinh giảm mạnh. Theo bản tóm tắt cố vấn pháp lý đệ trình bởi một nhóm các tổ chức tư nhân, bao gồm Amherst College, Oberlin College và Vassar College, “tỷ lệ sinh viên người gốc da đen được tuyển vào đại học sẽ giảm từ khoảng 7.1% xuống còn 2.1%.”
Lập trường của Tối Cao Pháp Viện về chính sách tuyển sinh nâng đỡ thiểu số
Tháng 1 năm ngoái, Students for Fair Admissions (SFFA), một nhóm chống chính sách nâng đỡ thiểu số, đã đệ trình hai vụ kiện lên TCPV, phản đối các chính sách tuyển sinh của Harvard University và University of North Carolina ở Chapel Hill (UNC). Các thẩm phán đã bỏ phiếu để đưa ra phán quyết, tỷ lệ 6:3 đối với vụ UNC và 6:2 đối với vụ Harvard. (Thẩm phán Ketanji Brown Jackson hồi tị trong vụ Harvard do bà nằm trong Harvard Board of Overseers trước thời điểm xảy ra vụ kiện.)
Theo quan điểm đa số của tòa, Chánh án John G. Roberts Jr. lưu ý rằng “Theo quan điểm này, không nên hiểu là các trường đại học không còn được xem xét những điều mà ứng viên nói về chủng tộc và ảnh hưởng của chủng tộc đến cuộc sống của họ, có thể là phân biệt đối xử, tạo cảm hứng hay những điều khác.” Tuy nhiên, ông nói thêm rằng “các trường đại học không thể chỉ quyết định dựa vào các bài tiểu luận ứng tuyển hoặc các phương tiện khác mà hiện nay được coi là bất hợp pháp ở Hoa Kỳ.”
Sonia Sotomayor, một trong ba thẩm phán bỏ phiếu chống, đã chỉ trích quyết định này, cho rằng phán quyết này của TCPV “đẩy lùi tiến bộ quan trọng và tiền lệ hàng thập niên.” Ngoài ra, thẩm phán Jackson cũng bày tỏ, “Sự thiếu hiểu biết chẳng mang đến lợi ích cho ai. Mặc dù các rào cản pháp lý chính thức liên quan đến chủng tộc đã không còn, nhưng vấn đề chủng tộc vẫn tồn tại trong trải nghiệm sống của tất cả người dân ở Hoa Kỳ theo vô vàn cách khác nhau, và phán quyết hôm nay chỉ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn chứ không hề tốt đẹp hơn.”
Lần gần đây nhất TCPV giữ nguyên chính sách tuyển sinh nâng đỡ thiểu số là vào năm 2016, trong vụ Fisher v. University of Texas (còn được gọi là Fisher II). Vụ việc bắt đầu khi Abigail Fisher, một học sinh trung học gốc da trắng, đã đệ đơn kiện University of Texas ở Austin (UT) sau khi bị từ chối nhập học, với lập luận rằng chính sách nâng đỡ người thiểu số của trường đã vi phạm quyền của cô trong Tu Chính Án Số 14, theo Equal Protection Clause. Ở Texas, những học sinh thuộc 10% đứng đầu của các trường trung học công lập sẽ được đảm bảo được nhận vào UT Austin. Fisher thuộc lớp đứng đầu 12%, bị đánh trượt. Số còn lại sẽ phải trải qua quá trình tuyển sinh thông thường, trong đó sẽ xem xét yếu tố chủng tộc và sắc tộc.
Trong vụ kiện của Fisher, TCPV đã duy trì tính hợp hiến của chính sách nâng đỡ thiểu số của UT sau khi biểu quyết với tỷ lệ 4-3. Bản quan điểm của tòa, viết bởi Thẩm phán Anthony Kennedy, bỏ ngỏ khả năng thay đổi trong tương lai, nêu rõ, “Các trường có nghĩa vụ liên tục cân nhắc và xem xét các chính sách tuyển sinh của mình.”
Nguồn gốc của chính sách nâng đỡ thiểu số
Shirley J. Wilcher, giám đốc của American Association for Access, Equity and Diversity cho biết, mặc dù những tranh luận về chính sách nâng đỡ người thiểu số hiện nay chủ yếu là trong lĩnh vực giáo dục, nhưng nguồn gốc của nó lại là từ luật lao động. Vào đầu thế kỷ 20, thực hiện “chính sách nâng đỡ người thiểu số” theo nghĩa đen là hành động không để cho ‘mọi thứ diễn ra tự nhiên’ mà chính phủ (hoặc chủ lao động) phải có vai trò tích cực trong việc đối xử công bằng với người lao động.
Nổi bật nhất trong số những lần cụm từ “affirmative action” xuất hiện là sự hiện diện của nó trong Đạo luật National Labor Relations Act năm 1935. Được biết đến nhiều hơn với tên gọi Wagner Act, đạo luật thành lập Hội Đồng Quan Hệ Lao Động Quốc Gia (National Labor Relations Board – NLRB). Sắc lệnh được ban ra quy định rằng chủ lao động sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử sẽ phải thực hiện chính sách nâng đỡ người thiểu số, bao gồm cả việc thuê lại nhân viên có hoặc không có khoản “back pay.”
Vào thời điểm đó, các chủ lao động phản đối và cho rằng NLRB quá thiên vị người lao động. Chủ tịch NLRB J. Warren Madden cho biết: “Hầu hết các chủ lao động đều không hoan nghênh đạo luật này.” Tối Cao Pháp Viện phán quyết Đạo luật Wagner hợp hiến vào năm 1937.
Bốn năm sau, khi Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến II, nhà hoạt động dân quyền A. Philip Randolph đã dẫn đầu một nỗ lực trên toàn quốc phản đối sự phân biệt đối xử trong lực lượng vũ trang và các ngành liên quan. Phong trào Tiến Về Thủ Đô “March on Washington” đã lên kế hoạch biểu tình tại U.S. Capitol vào ngày 1 tháng 7 năm 1941. Theo BlackPast.org, dự kiến có tới 100,000 người tham gia.
Vào ngày 25 tháng 6 năm 1941, chỉ vài ngày trước kế hoạch biểu tình, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã ban hành quốc lệnh Executive Order 8802, thành lập ủy ban Fair Employment Practices Committee (FEPC) đầu tiên và buộc các nhà thầu quốc phòng “tuyển dụng đầy đủ và bình đẳng tất cả người lao động trong các ngành công nghiệp quốc phòng, không được phân biệt đối xử.” Mặc dù tài liệu không sử dụng thuật ngữ “affirmative action,” nhưng đây là sắc lệnh đầu tiên của tổng thống đặt nền móng cho việc thực hiện chính sách công này về sau.
Thắng lợi trong tay, người ta đâu cần phải biểu tình chi nữa. Tuy nhiên, bất chấp những tiến bộ, thành kiến và định kiến vẫn cắm rễ sâu trong ngành cho tới năm 1945. Malcolm Ross, chủ tịch ủy ban FEPC, đã viết một lá thư cho tờ New York Times chỉ trích lệnh hành pháp đó chỉ là một biện pháp để ‘chặn họng’ cuộc biểu tình:
Các nhóm người thiểu số ở Hoa Kỳ đã đạt được nhiều thành tựu trong ngành công nghiệp chiến tranh và phục vụ trong chính phủ trong nhiều năm qua. Những định kiến xưa cũ đã dần bị phá bỏ, những phong tục cổ hủ đã bị gạt sang một bên, nhưng gốc rễ của vấn đề đã ăn quá sâu và chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phía trước.
Chính sách nâng đỡ người thiểu số và các sắc lệnh hành pháp
Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã tiếp tục xây dựng dựa trên nền tảng của Roosevelt với sắc lệnh Executive Order 10479 năm 1953, lập ra Ủy Ban Nhân Lực Chính Phủ để chống phân biệt đối xử. Nhưng John F. Kennedy mới là vị tổng thống đầu tiên kết hợp thuật ngữ “affirmative action” với ý nghĩa hiện đại của nó trong một chính sách tìm cách đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủng tộc. Vào ngày 6 tháng 3 năm 1961, trong Sắc Lệnh Tổng Thống 10925, ông kêu gọi các nhà thầu của chính phủ “thực hiện chính sách nâng đỡ người thiểu số để đảm bảo công bằng trong cả quá trình tuyển dụng và trong quá trình làm việc của nhân viên, bất kể chủng tộc, tín ngưỡng, màu da hay nguồn gốc quốc gia của họ.”
Wilcher cho biết, Ủy Ban Bình Đăng Cơ Hội của Kennedy đã thiết lập chương trình “Plans for Progress”, mở đường cho chính sách nâng đỡ người thiểu số về sau. Anthony S. Chen viết trong “The Fifth Freedom: Jobs, Politics and Civil Rights in the United States, 1941-1972” rằng “Plans for Progress” là một hiệp hội với hơn 400 nhà tuyển dụng công nghiệp lớn nhất quốc gia, tất cả đều tự nguyện tham gia và đưa ra cách chính sách mang đến cơ hội bình đẳng cho tất cả người lao động.
Trong chính quyền của Tổng thống Lyndon B. Johnson, cụm từ “affirmative action” đã có chỗ đứng của riêng mình. Theo Ngram Viewer, chương trình theo dõi việc sử dụng từ ngữ trong những cuốn sách theo thời gian của Google Books, sự xuất hiện của cụm từ này tăng đột ngột sau khi Johnson ký Executive Order 11246 vào ngày 24 tháng 9 năm 1965.
Sắc lệnh mới thay thế cho Executive Order 10925 của Kennedy, trao cho Bộ trưởng Bộ Lao Động trách nhiệm giám sát các điều khoản trong chính sách nâng đỡ người thiểu số. Để hỗ trợ những nỗ lực này, vào năm 1965, Johnson đã thành lập Phòng “Office of Federal Contract Compliance” tại Bộ Lao Động Hoa Kỳ.
Chính sách nâng đỡ người thiểu số trong lĩnh vực giáo dục
Chương tiếp theo, chính sách nâng đỡ người thiểu số mở rộng sang lĩnh vực giáo dục, bắt đầu với phán quyết của TCPV trong vụ Green v. County School Board of New Kent County (1954).
Phán quyết đã trở thành tâm điểm tranh luận của cả phe bảo thủ lẫn cấp tiến. Tổ chức Virginia Historical Society giải thích:
Do nhiều người gốc da trắng phải chuyển sang các học viện tư nhân và các vùng ngoại ô, nhiều trường học trong thành phố khó mà đạt được tính cân bằng chủng tộc nếu không có các tuyến xe chuyên chở học sinh, sinh viên trên toàn thành phố, hoặc từ quận này qua quận khác, từ thành phố này qua thành phố khác. Điều này tạo tiền đề cho một phản ứng dữ dội của người gốc da trắng đối với cơ quan tư pháp và củng cố quan điểm chính trị bảo thủ.
Sự phản hồi này đã thu hút sự chú ý của TCPV vào năm 1978, với vụ Regents of the University of California v. Bakke. Vụ kiện được đệ trình bởi Allan Bakke, một ứng viên người gốc da trắng đã hai lần bị từ chối nhập học vào University of California, Davis School of Medicine, mặc dù có điểm GPA và MCAT cao hơn một số ứng viên được nhận. Lúc bấy giờ, trường này dành 16/100 suất cho sinh viên người thiểu số. Trong phán quyết được đưa ra sau tỷ lệ biểu quyết 5:4, TCPV phán quyết rằng dù mức hạn ngạch trong tuyển sinh vi phạm Equal Protection Clause của Tu Chính Án Số 14, chủng tộc có thể được sử dụng như một yếu tố xem xét trong quá trình tuyển sinh để thúc đẩy sự đa dạng trong giáo dục.
Trước vụ Fisher, tòa án đã giữ nguyên chính sách nâng đỡ người thiểu số trong vụ Grutter v. Bollinger. Vụ kiện năm 2003 xoay quanh Barbara Grutter, một ứng viên người gốc da trắng nộp đơn vào University of Michigan Law School. Quy trình tuyển sinh của trường không có chỉ tiêu nhưng ưu tiên cho các ứng viên là người thiểu số. Trong một quyết định khác cũng với tỷ lệ biểu quyết 5:4, tòa án đã ra phán quyết nghiên về chính sách nâng đỡ người thiểu số quy trình tuyển sinh của các trường học.
Tuy nhiên, sau phán quyết tuần qua vào ngày 29 tháng 6 năm 2023, thì việc sử dụng chủng tộc như một yếu tố xem xét trong tuyển sinh đại học, cũng như trong các lĩnh vực khác của xã hội Hoa Kỳ, bước vào một tương lai bấp bênh. Các đánh giá về mục đích và hiệu quả của chính sách sẽ khác nhau tùy theo hệ tư tưởng. Quan điểm bảo thủ có lẽ được thể hiện rõ nhất qua câu nói nổi tiếng được Chánh án Roberts sử dụng vào năm 2007: “Cách để ngăn chặn sự phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc là ngừng các hành động phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc.”
Với Wilcher, chính sách nâng đỡ thiểu số là trụ cột của luật dân quyền. Bà giải thích: “Chính sách nâng đỡ người thiểu số đã bị nhuốm màu tiêu cực bởi các thông điệp truyền thông và những người phản đối hoặc lăm le muốn loại bỏ nó, nhưng động lực của nó nằm ở chính sách, chứ không phải là sự không phân biệt đối xử. Ta phải chứng tỏ rằng ta đã cố gắng nâng đỡ để giúp tăng cường mức độ đa dạng dẫn đến sự bình đẳng trong xã hội, và đó là ý nghĩa của chính sách nâng đỡ theo lệnh của Johnson. Ý nghĩa của nó vào năm 1965 là như thế, và vào thời nay cũng là như thế.”
Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “The History Behind the Supreme Court’s Affirmative Action Decision” của Jackie Mansky, được đăng trên trang Smithsonianmag.
Gửi ý kiến của bạn