Hôm nay,  

Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong chiến tranh Đông Dương

27/06/202309:21:00(Xem: 2012)
Tìm hiểu Lịch sử

dbp 4

 

Bối cảnh

 

Các diễn biến cực kỳ sôi động về nội chính và bang giao quốc tế trong cuộc chiến tranh Đông Dương làm cho Hoa Kỳ thay đổi chiến luợc chống Cộng Sản từ hình thức trung dung sang ủng hộ Pháp. Vì  sao Hoa Kỳ phát triển chính sách này lên cực điểm?
 
Nguyên nhân rất đa dạng. Khởi đầu của các diễn biến là tại châu Âu. Trước Đệ nhị Thế chiến, Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố trước công luận thế giới rằng Mỹ sẽ là pháo đài bảo vệ cho nền dân chủ tự do. Đến tháng 12 năm 1941, qua các cuộc thăm dò, đa số công luận Mỹ tin rằng giá trị tự do dân chủ và chủ nghĩa tư bản phương Tây là một phương thức duy nhất làm cho các nước phát triển và thịnh vượng, nhất là ngăn chận các cuộc bùng nổ chiến tranh.
 
Cùng với Liên Xô và Anh, Hoa Kỳ đã chiến thắng Đế quốc Đức và Nhật. Sau khi đoàn kết để kết thúc chiến tranh, Joseph Stalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, cho rằng kế hoạch tái thiết hậu chiến là thực tế, hợp tác với các cường quốc phương Tây là khả thi và đối nghịch ý thức hệ không nghiêm trọng.
 
Thoạt đầu, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Roosevelt đồng thuận cho việc Liên Xô sẽ phát triển ảnh hưởng chính trị tại Đông Âu. Stalin hy vọng sẽ mở rộng quyền lực, kể cả bằng bạo lực khi cần thiết và phương Tây,  vì lo sợ không thể đối phó, sẽ thích nghi bằng các biện pháp tương nhượng.
 
Sau khi nhận ra tham vọng của Stalin qua các biện pháp Xô viết hoá tàn bạo, Churchill và Roosevelt cho là chủ nghĩa Cộng sản đang de doạ thế giới, tình hình không còn phù hợp với quyền lợi chiến lược của phương Tây; cả hai chống đối công khai Stalin và xem hai khối Đông- Tây thành hình,  mở màn cho Chiến tranh Lạnh. Trong chiều hướng này, hệ thống quốc tế bắt đầu rạn nứt. Đó là tình hình chung, còn diễn biến tại các nước Đông Dương khác hẳn.
 
Tình trạng xung đột giữa thực dân Pháp và  Việt Nam phát triển trong bối cảnh đặc biệt khi phong trào đấu tranh giành độc lập đang thành hình. Mục tiêu của quân đội Pháp tại Việt Nam không chỉ là chiếm lại thuộc địa, mà còn đẩy lui lực lượng của Cộng sản đội lốt phong trào đấu tranh  giành độc lập dân tộc đang manh nha. Do đó, tinh thần cam kết của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam là kết quả của chiến luợc này.
 
Tương lai của các nước Đông Dương được  Roosevelt, Churchill và Tưởng Giới Thạch thảo luận lần đầu tiên tại hội nghị Cairo, Ai Cập  từ ngày 22-26 tháng 11 năm 1943. Roosevelt chủ trương phải tôn trọng quyền tự quyết dân tộc của các quốc gia bị trị, một lập trường chính thức mà Hiến chương Đại Tây Dương (Atlantic Charter) đã nêu ra trong tháng 8 năm 1941. Nhưng Roosevelt và Tưởng Giới Thạch dè dặt hơn khi nhận ra sự  ủy trị quốc tế (International Trusteeship) cho các nước Đông Dương là chưa thuận lợi và đúng lúc.
 
Sau đó, tại hội nghị Tehran ngày 28 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1943, đề nghị này lại được đưa ra thảo luận. Lần này, đề nghị sự  ủy trị được Stalin tán thành, còn Churchill thì không. Lý do chính là vì Anh và Pháp vẫn còn mong muốn duy trì các đặc lợi kinh tế  tại các nước bị trị.
 
Ngày 24 tháng 1 năm 1944, Roosevelt khẳng định là các nước Đông Dương không nên trả lại cho Pháp, vì người dân sống tệ hại trong gần cả thế kỷ nay và xứng đáng được sống tốt đẹp hơn. Ngược lại, Anh đã thông đồng để tìm cách đưa Pháp trở lại Việt Nam.
 
Giới hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ cho là viện trợ cho Pháp  gây cho các nước xa lánh phương Tây trong khi nếu ủng hộ cho Việt Nam giành độc lập đồng nghĩa với việc giúp cho Cộng sản thành hình. Nhưng vấn đề chưa chung quyết thì ngày 12 tháng 4 năm 1945 Roosevelt qua đời.
 
Tổng thống Harry S. Truman, người kế nhiệm Roosevelt, thấy không thể còn ve vãn Liên Xô như trước. Hoà nhịp theo trào lưu này là việc đa số công luận Mỹ cũng đồng thuận sự thay đổi quan điểm và dân chúng Đông Âu thức tỉnh khi xem chuyển hướng hy vọng về phía Mỹ cần thiết nhiều hơn.
 
Xung đột thể hiện rõ khi Stalin không tiếp tục hợp tác với phương Tây trong việc tìm ra một giải pháp cho tương lai của nước Đức. Cùng lúc, Stalin gây áp lực nặng nề đối với Thổ khi gia tăng yểm trợ cho Đảng Cộng sản Thổ tại Hy Lạp. Các tranh chấp làm cho các mối bang giao quốc tế trong năm 1947 trầm trọng hơn.
 
Trước tình hình này, Tổng thống Truman công bố chính sách ngăn chận, không phải chỉ lo viện trợ quân sự cho Thổ và Hy Lạp, mà cho các nước khác đang đứng trước hiểm hoạ xâm lăng hoặc áp lực ngoại giao của Cộng sản.
 
Chính sách ngăn chận của có giá trị thuyết phục cao, nên từ năm 1947 Mỹ tiếp tục theo đuổi qua kế hoạch tái thiết hậu chiến  Marshall. Qua đó, Mỹ đã tạo phương tiện khởi đầu để giúp cho các nước Tây Âu đi vào giai đoạn phát triển và ổn định. Các thành tựu này làm cho mọi quan hệ chính trị giữa Mỹ và Tây Âu gắn bó hơn.
 
Điển hình là Mỹ thành lập Liên minh Bắc Đại Tây Duơng (NATO) vào năm 1949 để củng cố và tăng cường quyền lợi an ninh tại Tây Âu.
 
Các cựu thù của Đồng minh là Đức và Nhật cũng tham gia xây dựng một trật tự mới; hai quốc gia trung tâm này hội nhập theo tinh thần tự do và chủ nghĩa tư bản. Không bao lâu sau, với những nỗ lực tái thiết hậu chiến, Đức và Nhật trở thành cuờng quốc khu vực thân phương Tây mà nhiệm vụ chính là ngăn chận ảnh hưởng của Trung Hoa và Liên Xô và bảo vệ cho quyền lợi an ninh của Mỹ.
 
Theo Truman, chính sách bảo vệ an ninh và tái hội nhập kinh tế thế giới có hai khía cạnh: ngăn chận sự bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản và phát triển chủ nghĩa tư bản. Truman lạc quan cho là khi cả hai mục tiêu này kết hợp nhau thuận lợi sẽ cổ vũ cho chính sách Mỹ: phát triển tự do cá nhân trong nền kinh tế thị trường theo chiều hướng hưởng thụ tiện nghi vật chất tối đa qua lối sống Mỹ.
 
Cùng theo tinh thần này, Truman tin là các nước Đông Nam Á sẽ vừa là thị trường cung ứng nguyên nhiên vật liệu cho việc sản xuất công nghiệp và nơi tiêu thụ sản phẩm của Mỹ và phương Tây. Qua thời gian, các quốc gia này sẽ chấp nhận các giá trị phuơng Tây và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
 
Cụ thể là ngay trong lúc đầu của nhiệm kỳ tổng thống, Harry Truman đã gởi 35 cố vấn quân sự Hoa Kỳ đã tham gia việc bảo vệ miền Nam Việt Nam.
 
Pháp công nhận chế độ Bảo Đại
 
Trong việc phát triển chiến lược chung  cho Đông Nam Á, thoạt đầu, Hoa Kỳ không quan tâm đến vai trò chiến lược của Việt Nam, mà mục tiêu chính là gây áp lực cho Pháp phải cải cách chính sách thuộc địa và hỗ trợ cho các đoàn thể chính trị địa phương có tư tưởng dân chủ thân phương Tây thành hình.
 
Thực ra, trong việc hoạch định chính sách ngoại giao mới, Bộ Ngoại giao Mỹ không nhận định được một cách chính xác về vai trò của ông Hồ và Việt Minh trong hoàn cảnh mới.
 
Bộ Ngoại giao Mỹ nghi ngờ về thành tích đấu tranh trong tinh thần giải phóng dân tộc của ông Hồ, nhưng lại cho rằng, không có giải pháp tương ứng khả thi nào khác và không ai có thể thay thế cho ông. Hơn nữa, báo chí Mỹ khuyến nghị Bộ Ngoại giao nên tiếp xúc với ông Hồ và nhất là vì không ai chứng minh ông Hồ là thân Liên Xô.
 
Nhiều giải thích khác cũng tương tự. Stalin  tin ông Hồ là một cánh tay đắc lực và không ai khác thay thế ông Hồ trong vai trò lãnh đạo cho Việt Nam.
 
Một mặt, khi chế độ thuộc địa đã kết thúc, Mỹ áp lực các cường quốc thực dân là trao trả quyền dân tộc tự quyết. Mặt khác, Mỹ tỏ ra dè dặt khi không công khai tiếp xúc với Cộng sản đang đội lốt đấu tranh cho phong trào giải phóng dân tộc.
 
Tại Việt Nam, không phải Mỹ mà là Pháp định đoạt tất cả trong việc tìm ra một giải pháp chính trị thích hợp, nhưng Pháp không đạt kết quả khả quan nào. Cuối cùng, Pháp tìm ra một giải pháp thuận lợi nhất là hợp tác với Hoàng đế Bảo Đại, một nhân vật khả kính còn lại của Hoàng triều.
 
Sau nhiều đắn đo, Bảo Đại tuyên bố đồng ý sẽ theo các biện pháp do Pháp chủ xướng. Trong Thoả ước Elysée năm 1949, Pháp hứa hẹn trao độc lập cho Việt Nam trong khi chính sách đối ngoại và quốc phòng còn nằm trong tay của Pháp.
 
Ngoài ra, do thoả thuận, Pháp còn hưởng các biện pháp kinh tế thuận lợi. Cho dù chính phủ Việt Nam mới thuộc quyền của Bảo Đại, nhưng điều kiện Việt Nam, Lào và Campuchia còn phải nằm trong Liên hiệp Pháp làm cho Pháp tỏ ra không thiết tha khi hứa hẹn trao trả độc lập.
 
Nhờ quan liên hệ lâu dài với Bảo Đại mà Pháp có nhiều điểm lợi về kinh tế và chính trị. Do đó, Việt Minh, cho dù nhân danh giải phóng dân tộc, khó có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo chung cho toàn quốc gia.
 
Trước những bất lợi cho Việt Minh, nhưng cũng không vì thế mà làm cho Bảo Đại phát huy thanh thế. Trong thời kỳ biến động, hầu như ông không trực tiếp giải quyết các vấn đề hệ trọng cho đất nước. Lý do chính là lối sống xa hoa và cách biệt nông dân, hầu hết thời gian Bảo Đại và gia đình là ở Nice, miền Nam nước Pháp, và biệt điện ở Đà Lạt.
 
Nội chính bất ổn
 
Mao Trach Đông chiến thắng tại Trung Quốc vào tháng Mười năm 1949 làm cho Tướng Tưởng Giới Thạch và lực lượng Quốc Dân Đảng tháo chạy sang Đài Loan. Hai chuyển biến quan trọng này gây ra một sự thay đổi triệt để trong chính sách về Đông Dương của Mỹ.
 
Tại Quốc hội, Đảng Cộng Hoà, trong vị thế đối lập, đã lên án tổn thất này cho trách nhiệm Tổng thống Truman khi không ủng hộ Tướng Tưởng Giới Thạch kiên quyết chống Cộng sản. Lời cáo giác có sức thuyết phục cao, vì trên bình diện quốc tế, công luận Mỹ bắt đầu cảm thấy bị Cộng sản đe doạ, ngay cả trong nội địa, họ tin rằng vấn đề nội gián cho Cộng sản có thể xảy ra.
 
Tháng 3 năm 1947, Truman ra lệnh cho kiểm soát các công chức liên bang xem có liên hệ với Cộng sản Mỹ và Quốc tế không. Ngoài ra, ông còn cho thành lập House Unamerican Activities Committee, (HUAC), một cơ quan chuyên lo theo dõi dân chúng trong các hoạt động này.
 
Qua cuộc chiến Triều Tiên, mối đe doạ về nội gián Cộng sản gia tăng. Từ năm 1950 đến 1953, Joseph MaCarthy, Nghị sĩ Đảng Cộng hoà, đã tổ chức một cuộc thanh lọc quy mô qua chương trình truy lùng các giới chức trong chính quyền có khuynh hướng thân Cộng, kể cả trong giới trí thức và dân chúng yêu chuộng tự do. Khi lực lượng an ninh nội chính gia tăng các hoạt động theo dõi ráo riết trong cả nước, làm cho thanh danh của Mỹ trong chính sách ngoại giao bị ảnh hưởng trầm trọng.
 
Ngoại giao biến động
 
Tháng Giêng năm 1950, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc và Liên Xô công nhận Việt Minh là chính phủ hợp pháp của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
 
Qua biện pháp này, Hoa Kỳ mới nhận thức được chính xác là Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô hợp tác chung trong chính sách thâm nhập Đông Nam Á, cuối cùng, cả ba sẽ chiến thắng và đe doạ cho toàn thể thế giới tự do. Hiểm hoạ xâm lăng của Cộng sản quốc tế đã trở thành hiện thực khi Liên Xô và Trung Quốc hỗ trợ cho Cộng sản Bắc Hàn tấn công bán đảo Nam Hàn tháng 6 năm 1950.  
 
Tình thế biến đổi làm cho Bộ Ngoại giao Mỹ quan tâm đến vận mệnh các nước Đông Nam Á. Sách lược duy nhất còn lại là chỉ chọn lựa bạn hoặc thù, không thể khác hơn, giải pháp trung dung không là một thái độ khôn ngoan mà còn bị khinh miệt.
 
Khi công khai ủng hộ cho Pháp trong chiến tranh Đông Dương, Mỹ cần đến Pháp. Chỉ trong năm 1949, kinh phí chiến tranh lên đến 167 triệu quan Pháp.
 
Trong thời gian từ 1950 cho đến 1954, kinh phí viện trợ của Mỹ cho Pháp và Việt Nam lên đến 2,76 tỷ đô la, cả chiến cụ và các loại dịch vụ khác, trong đó có 1800 xe thiết giáp, 31000 xe Jeeps, 36100 vũ khí nặng và cầm tay, hai hàng không mẫu hạm và 500 phi cơ. Năm 1952, Mỹ tài trợ 40% chiến phí, đến năm 1954, mức tài trợ của Mỹ lên đến 80%. Ngược lại, chương trình viện trợ phát triển kinh tế bị giới hạn trong khoảng 50 triệu đô la.
 
Đến tháng 3 năm 1950, viện trợ ào ạt của Mỹ cũng không tạo thuận lợi cho quân đội Pháp gây được chuyển biến đáng kể, bằng chứng là Việt Minh chiếm được 2/3 lãnh thổ và đến cuối năm, Tướng Giáp đã dồn được quân đội Pháp đến vùng biên giới Hoa-Việt. 
 
Thuận lợi nhất cho Việt Minh trong giai đoạn này là quân viện của Trung Hoa cho Việt Minh không còn gặp trở ngại về vận chuyển. Đây là một buớc đột phá chiến lược làm cho Pháp lo ngại nhiều hơn.
Cuối cùng, Pháp phải thay đổi giới lãnh đạo quân sự tại Việt Nam. Tướng Jean de Latte de Tassigny, dù đã nổi danh là có tài năng quân sự và tinh thần lạc quan, nhưng cũng chỉ mang lại cho Pháp thành công tạm thời trong bước đầu.
 
Chiến thắng Điện Biên Phủ
 
Theo quan điểm của Mỹ, Pháp bảo vệ cho các nước phương Tây tại Đông Dương, trong khi Mỹ lo bảo vệ Nam Hàn. Dù hai trận tuyến dị biệt, mà là mang một mục đích toàn diện nhằm chống lại trào lưu của Cộng sản Quốc tế đang lên.
 
Nhưng trước các chống đối của Quốc hội, Eisenhower không muốn Mỹ đơn phương hành động, mà ít nhất phải có Pháp hợp tác để tiến hành. Nhưng công luận Mỹ không đồng tình phương sách này, vì cho là Mỹ cũng là một loại thực dân mới khi hợp tác với Pháp.

Sau nhiều trận giao tranh ác liệt, Việt Minh phải lui về cố thủ trong các làng mạc xa xôi, chính Điện Biên Phủ lại trở thành vùng tử địa cho quân đội Pháp. Dù Pháp nỗ lực tân trang cho quân đội Việt Nam, nhưng cũng không đem lại thành công quân sự nào đáng kể.
 
Uy tín thực dân Pháp suy sụp thảm hại. Công luận Pháp bắt đầu lên án chiến tranh Đông Duơng là dơ bẩn. Trong khi tinh thần binh sĩ mệt mỏi, Quốc hội không còn chuẩn chi kinh phí cho chiến tranh; lúc này,Washington cho là chiến tranh của Pháp tại Đông Dương dần dà thành hình một loại chiến tranh ủy nhiệm.
 
Cuối cùng, mọi dự đoán đều trở nên sai lạc khi chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh làm đảo lộn tình thế tại Việt Nam.
 
Số phận của binh sĩ Pháp được an bài. Sau 55 ngày bị vây hãm và công kích, Pháp đầu hàng. Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc sự cai trị của Pháp tại miền Bắc, mà còn khởi đầu cho sự thất bại của Pháp trên toàn cõi Đông Dương mà Hiệp định Genève 1954 là một bằng chứng khác về mặt pháp lý và ngoại giao.
 
Hiệp Định Genève 1954
 
Sau khi ký kết Hiệp định, tình hình thay đổi buộc Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles phải kết hợp với chính phủ Anh đề ra một chương trình là chuyển huớng triệt để và giới hạn các thiệt hại có thể sẽ xảy ra.
 
Hai mục tiêu chung trước mắt là Phong trào Giải thực phải tiếp tục tiến hành và Pháp phải vĩnh viễn rút quân ra khỏi Đông Dương và trao trả độc lập cho Lào, Campuchia và Việt Nam, thực tế có nghĩa là, cô lập Việt Minh tại miền Bắc, trong khi Lào, Campuchia và Nam Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
 
Mỹ thấy cần theo đuổi chính sách đóng vai trò thay thế cho Pháp, bảo vệ an ninh cho Đông Dương và sẽ gắn bó với định mệnh của Việt Nam
 
Từ năm 1956, để  tiếp tục chống Cộng sản, Tổng thống Eisenhower gia tăng viện trợ Mỹ và nâng số lượng các cố vấn quân sự lên đến gần 700.
 
Lúc cuối nhiệm kỳ, Eisenhower ý thức tầm quan trọng trong việc các binh sĩ Bắc Việt thâm nhập Lào và Campuchia; đường mòn Hồ Chí Minh dài 1000 cây số trở thành một trục tiếp vận để Cộng sản có thể làm suy yếu và làm sụp đổ chính phủ miền Nam.
 
Đảm nhiệm vai trò bảo vệ này chính là tiền đề làm cho Mỹ trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam về sau.
 
Kết luận
 
Nhìn lại toàn cảnh hỗn loạn của đất nước trong buổi giao thời, với các sử liệu về sau được giải mật, hậu thế có các kết luận khác hơn.  
 
Không giống như Pháp, Mỹ không có một văn bản chính thức nào lưu trữ tại Quốc hội ghi nhận là có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam. Cho đến cả về sau, khi chiến tranh diễn ra khốc liệt, các chính phủ Mỹ kế  nhiệm cũng không muốn thôn tính lãnh thổ hay thu tóm quyền lợi kinh tế của Việt Nam.
 
Ngay từ đầu, Mỹ không định đoạt cho tương lai của Đông Dương và không tước đoạt quyền cai trị Đông Dương trong tay của Pháp. OSS đã có mặt tại Việt Nam và ra đi sau khi chấm dứt nhiệm vụ. Ông Hồ tìm kiếm sự hợp tác với Mỹ, đặc biệt là với Truman, nhưng thất bại .
 
Cụ thể là, trong cuộc điện đàm ngày 12 tháng 9 năm 1946 với George M. Abbott, Tuỳ viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris,  ông Hồ phủ nhận là có hoạt động cho Cộng Sản, nội các không có các thành viên là người của Cộng sản và Đảng Cộng sản đã giải tán.
 
Những lời dối trá này là một chiến thuật  để ông Hồ tìm cách thuyết phục Truman hợp tác, không phải chỉ là một thất bại tạm thời, mà là một khởi đầu của sự bất hạnh cho toàn dân tộc trong suốt cả một chiều dài lịch sử.

Cuối cùng, không còn cách nào khác hơn, ông Hồ tìm lối thoát là gắn bó với chủ nghĩa Cộng Sản và hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc và Liên Xô. Đó là lý do tại sao bi kịch cho dân tộc còn kéo dài  cho đến ngày hôm nay.

 

-- Đỗ Kim Thêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để giành lại chủ quyền cho dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam, tiền nhân của chúng ta đã gian khổ cùng một lòng đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dầy công gầy dựng. Cho nên nhìn lại dòng lịch sử dân tộc từ Bắc vào Nam ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước chống giặc ngoại xâm...
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.