Hôm nay,  

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy -- Nhà hoạt động chính trị

15/08/202317:48:00(Xem: 1601)
Tìm hiểu

huy
Nhà hoạt động chính trị, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy [1924-1990].


Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
 
Từ một đảng cách mạng sang một đảng chống cộng
 
Ông Huy gia nhập Đảng Đại Việt vào đầu năm 1945 ở tuổi 21, khi ấy Việt Nam đang chịu 2 gọng kềm là thực dân Pháp và quân phiệt Nhật nên đảng Đại Việt là một đảng cách mạng với mục tiêu giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
 
Theo ông Huy ưu điểm của Đảng Đại Việt là có Chủ nghĩa Dân tộc Sinh tồn làm căn bản triết lý. Chủ nghĩa này đặt quyền lợi dân tộc lên trên, nên Đảng Đại Việt rất quan tâm đến các vấn đề chính trị và xã hội.
 
Theo ông Huy, sau khi đảng Cộng Sản cướp chính quyền, đảng Đại Việt chuyển từ một đảng cách mạng sang một đảng chống cộng vì 2 lý do chính là: (1) đảng Cộng Sản đặt quyền lợi dân tộc đằng sau quyền lợi quốc tế cộng sản, và (2) đảng Cộng Sản là một đảng độc tài mục tiêu là tiêu diệt tất cả những đảng phái khác do đó để “sinh tồn” hay tồn tại đảng Đại Việt như hầu hết các đảng phái không cộng sản khác không có con đường khác hơn là chống lại cộng sản. Từ đó đảng Đại Việt chọn con đường cộng tác với Quốc Trưởng Bảo Đại để từng bước giành lại độc lập cho Việt Nam.
 
Trong thời gian từ 1946 đến 1955 ông Huy được đảng giao trách nhiệm nghiên cứu chính trị, viết tài liệu chính trị và viết các bài báo có liên quan đến chính trị. Ông được xem là một lý thuyết gia và người truyền bá tư tưởng chính trị cho đảng Đại Việt.
 
Học và dạy về chính trị
 
Năm 1955, ông Huy được đảng chỉ định đi Pháp vừa để phụ giúp cho ông Nguyễn Tôn Hoàn lãnh đạo Đại Việt, vừa để lánh nạn chính trị, vừa để đi học. Ông học trường Khoa Học Chính trị Paris và trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế Paris. Ông lấy Tiến Sĩ Chính Trị Học vào tháng 3 năm 1963.
 
Ngay sau cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm ông trở về Sài Gòn vào tháng 11-1963. Ông làm Đổng lý Văn phòng cho Phó thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn cho đến khi ông Hoàn từ chức vào tháng 9/1964.
 
Từ năm 1965, ông vào làm giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh dạy về chính trị và luật hiến pháp, đồng thời làm giảng viên ở nhiều trường đại học và các trường quân sự như trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị.
 
Nói chung, ông là người có ảnh hưởng rất lớn với cả trí thức dân sự cũng như sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
 
Lập đảng Tân Đại Việt
 
Trong năm 1964, đảng Đại Việt lâm vào tình trạng phân hóa nặng nề, ông Hoàn và ông Huy bị khép tội “phản đảng” bị khai trừ khỏi đảng. Ông Huy cho rằng lãnh đạo đảng Đại Việt khi ấy rất độc tài, họ chống lại bất cứ ai không theo họ. Nhưng không phải vì thế mà ông Huy bỏ cuộc, ông thuyết phục Xứ bộ Nam Việt tách ra và thành lập đảng Tân Đại Việt theo đường lối dân chủ, thành thật hợp tác và đoàn kết với các đoàn thể quốc gia. Theo ông như thế thì mới giữ được miền Nam Việt Nam khỏi mất vào tay cộng sản.
 
Ông làm Tổng Bí Thư cho đảng Tân Đại Việt và sau đó ông thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến do ông làm Tổng Thư Ký. Lập trường của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là ủng hộ chính phủ đối phó với cộng sản, nhưng không tham dự chính quyền và đòi hỏi chính quyền phải áp dụng đúng quy tắc dân chủ, chấm dứt nạn tham nhũng, cũng như nạn bè phái đưa những người thiếu tài đức nắm giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền.
 
Cộng tác với chính quyền
 
Từ năm 1968, ông tham dự Hòa đàm Paris giúp phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa xây dựng một hệ thống lý luận để có thể tranh cãi với cộng sản và ông đi các nước Âu châu để trình bày cho đồng hương tình hình chung và lập trường của Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1973, ông cùng phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa tham dự hội nghị La Celle Saint Cloud. Ông cũng là thành viên sáng lập và là đồng Chủ tịch của Liên minh Dân chủ Xã hội, một tổ chức gồm 6 chính đảng đối lập theo xu hướng dân chủ trên chính trường Việt Nam Cộng Hòa.
 
Tị nạn cộng sản
 
Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, ra hải ngoại ông vẫn không ngừng hoạt động chính trị như gầy dựng đảng Tân Đại Việt, vào năm 1981 ông thành lập Liên minh Dân chủ Việt Nam do ông làm Chủ tịch Ủy ban Chấp hành Trung ương, đến năm 1986 ông sáng lập và làm Ủy viên Danh dự của Ủy ban Quốc tế Yểm trợ Việt Nam Tự do. Ông hoạt động chính trị cho đến ngày ông qua đời ngày 28 tháng 7 năm 1990. Như vậy là cả cuộc đời ông đã dành cho những hoạt động chính trị Việt Nam.
 
Lý do thúc đẩy
 
Về lý do thúc đẩy Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy suốt đời hoạt động chính trị đã được ông Huy trả lời trong cuộc phỏng vấn do Hoàng Khởi Phong và Lê Đình Điểu thực hiện như sau:
 
“Nếu sanh ra trong một nước Việt Nam độc lập, tự do và thái bình, thì tôi đã theo hoài bão lúc nhỏ của tôi là làm thi sĩ Đằng Phương chuyên viết thơ hùng tráng; có cần phải thêm một việc làm để mưu sinh thì tôi lấy bằng của Đại Học Văn Khoa và làm giáo sư văn khoa. Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị. Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm.”
 
Chính trị chân chính
 
Khó có thể kiếm được một nhà hoạt động chính trị có tài có đức, luôn đặt quyền lợi dân tộc Việt lên trên và suốt cuộc đời đã cống hiến cho các hoạt động chính trị Việt Nam như giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
 
Nhưng điều đáng nói là ông Huy không vì thế mà tự cho là một nhà hoạt động chính trị chân chính, mà ngược lại ông luôn nhìn vào tình hình Việt Nam và luôn thông cảm cho những nhà hoạt động chính trị khác.
 
Ông trả lời cuộc phỏng vấn của Giáo sư Chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng vào ngày 03/02/1987, nghĩa là trước khi ông Huy mất vài năm. Cuộc phỏng vấn được đăng trên “TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VIỆT MỸ” thuộc Trung tâm Nghiên cứu Việt Mỹ, viện Đại học Oregon, vào 24 Tháng Sáu, 2022.
 
“… Người Quốc Gia Việt Nam mà trong sạch đàng hoàng thì lại không được người ngoại quốc tin cậy. Bởi vì họ cho là cái thứ người trong sạch, đàng hoàng thì cứng đầu, cứng cổ và khi quyền lợi Việt Nam xung đột quyền lợi nước họ thì sẽ không nhân nhượng cho họ. Cho nên họ phải tìm những người dễ sai bảo…”
 
Sự chân chính của người làm chính trị là luôn thông cảm và đồng cảm với những người đang đồng hành trên con đường chính trị có chung một mục đích và một mục tiêu. Đó chính là bài học mà tôi đã học được từ giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
 

-- Nguyễn Quang Duy

(Melbourne, Úc, 13/8/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để giành lại chủ quyền cho dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam, tiền nhân của chúng ta đã gian khổ cùng một lòng đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dầy công gầy dựng. Cho nên nhìn lại dòng lịch sử dân tộc từ Bắc vào Nam ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước chống giặc ngoại xâm...
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
Một nhóm khoa học giả quốc tế đã thấy bằng chứng lâu đời nhất về cà ri bên ngoài Ấn Độ và cho thấy ý nghĩa lịch sử của hành trình mà các thành phần gia vị này đã trải qua để đến đó. Các nhà nghiên cứu từ Úc, Việt Nam và Trung Quốc đã tìm thấy món ăn này – được biết đến với hương vị cay nồng của đất, có nguồn gốc từ Nam Á và hiện đã phổ biến trên toàn cầu – có lẽ đã được đưa đến bàn ăn của người Việt Nam hơn 1800 năm trước nhờ mạng lưới thương mại hàng hải.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.