Hôm nay,  

Phát Triển Tư Doanh

1/18/200600:00:00(View: 6179)
-Tư doanh chỉ xuất hiện trong tư thế du kích và sẵn sàng cuốn trọn cơ sở của mình trong manh chiếu để bỏ chạy. Mãi đến gần đây...

Trong bài tổng kết thứ ba về tình hình kinh tế Việt Nam, kỳ này Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ trình bày về phát triển tư doanh qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Thanh Quan thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, trong loạt bài tổng kết về kinh tế Việt Nam và nêu ra một số viễn ảnh cho năm 2006 đang khởi đầu, kỳ này, chúng ta xin nói về một lãnh vực mới nổi là tư doanh của Việt Nam. Trước hết, xin ông cho biết một số những nét chính của khu vực này.

- Tư doanh tại Việt Nam là một khu vực cũ mà lại rất mới. Cũ vì thời nào cũng có, nhưng mới vì sau 1975, trong nông nghiệp, người ta phải đi vào hợp tác hóa, trong công thương nghiệp thì bị cải tạo. Tư doanh chỉ xuất hiện trong tư thế du kích và sẵn sàng cuốn trọn cơ sở của mình trong manh chiếu để bỏ chạy. Mãi đến gần đây thành phần kinh tế này mới được phép xuất hiện, rồi hiện hữu, sau khi lãnh đạo Việt Nam chấm dứt việc "cải tạo" để nói đến "đổi mới."

Hỏi: Ông nói là lãnh đạo Việt Nam bắt đầu nói đến đổi mới, nhưng họ thực sự có tiến hành một số thay đổi khiến tư doanh ngày nay đã có một vị trí khả quan hơn trong nền kinh tế chứ"

- Thưa vâng, nhưng từ nói đến làm luôn luôn có khoảng cách, và thực tế thì tư doanh mới chỉ xác định được tiềm năng của mình từ đợt cải cách năm 2000 trở về sau. Trước đấy, tư doanh bành trướng đến đâu thì nhà nước lùi đến đó và vừa lùi vừa làm luật để lập ra quy chế mới. Một thí dụ nổi bật trong năm qua là việc nhà nước tìm cách đúc kết lại hệ thống luật lệ phân tán vào bộ Luật Doanh nghiệp chung cho tư doanh, quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. "Dân chạy trước nhà nước theo sau" vẫn là quy luật xã hội phổ biến. Nếu nhìn về quá khứ thì tư doanh nay dễ thở hơn xưa, nhưng nhìn ra ngoài thì Việt Nam vẫn chậm lụt, vì vậy kém sức cạnh tranh. Trong viễn ảnh hội nhập với kinh tế thế giới thì đấy là mối lo.

Hỏi: Dù sao, tư doanh Việt Nam có góp phần đáng kể cho đà tăng trưởng kinh tế trong những năm qua phải không"

- Đáng kể vô cùng, vì cùng một ngạch số đầu tư, doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều việc làm hơn và có tỷ lệ đóng góp cao hơn doanh nghiệp nhà nước cho hoạt động xuất khẩu. Tư doanh hiện đóng góp tới một phần ba sản lượng công nghiệp của Việt Nam và thu hút hơn 20% lực lượng lao động. Không có tư doanh, mỗi năm kinh tế Việt Nam không thể nào tạo thêm một triệu rưởi việc làm mới, và thất nghiệp và khủng hoảng đã bùng nổ từ lâu.

Điều đáng buồn là thành phần kinh tế ấy vẫn bị chặn đà phát triển và nếu Việt Nam không kịp cải cách thì sau khi được gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm tới thì sẽ gặp nhiều khó khăn vì tư doanh phải chạy đua với cái cối đá giàng vào chân. Có nối sợi dây cho dài hơn một chút mà gọi đó là cải cách thì cũng chưa giải quyết được vấn đề.

Hỏi: Bây giờ ta mới đi vào phần chính của đề tài, theo ông nhận xét thì đâu là những trở ngại đang chặn đà phát triển của tư doanh Việt Nam"

- Tôi xin cứ đi từ nguyên tắc vào tới thực tế. Doanh nghiệp tại Việt nam cần những gì để thành công" Tôi nhìn ra bốn yếu tố chính là đất đai, tín dụng, nhân công và kỹ thuật hay công nghệ về tổ chức, sản xuất và kinh doanh.

Doanh nghiệp của nhà nước không bị ách tắc về đất đai vì nguyên lý quái gở là "đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý" được ghi trong Hiến pháp. Nhà nước quản lý theo kiểu cho phép doanh nghiệp nhà nước rộng quyền sử dụng, buôn bán và trục lợi. Các doanh nghiệp còn lại, của tư doanh Việt Nam và nước ngoài thì không. Đấy là một trở ngại và một nguyên ủy của tham nhũng. Vấn đề này sẽ gây hậu quả đáng ngại vì tiến trình kỹ nghệ hóa và đô thị hóa tất yếu sẽ thay đổi mục tiêu sử dụng đất, từ nông nghiệp qua công nghiệp và dịch vụ. Mỗi lần chuyển đổi mục tiêu là một ách tắc và cơ hội tham nhũng, những gì đang xảy ra tại Trung Quốc cho thấy trước những gì sẽ xảy ra tại Việt Nam.

Hỏi: Đó là về chuyện đất đai. Thưa ông, còn về yếu tố sản xuất kế tiếp là tín dụng thì sao"

- Chúng ta cũng có một lệch lạc tương tự. Đó là bốn ngân hàng quốc doanh cung cấp đến hơn 70% khối lượng tín dụng cho nền kinh tế thì lại tập trung dồn cho doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nước ngoài thì có nguồn vốn châm vào từ bên ngoài nên không bị ách tắc ấy, còn lại tư doanh vẫn xếp hàng vay vốn, hoặc huy động vốn từ gia đình hoặc thân nhân ở nước ngoài. Vì vậy, ta thiếu doanh nghiệp tư nhân loại trung và hiếm có doanh nghiệp loại lớn.

Hỏi: Nhưng dù sao chính quyền tại Việt Nam cũng có chương trình tín dụng theo diện chính sách để giúp đỡ người dân, chương trình ấy không có kết quả gì sao"

- Thưa có chứ. Do khuyến cáo của quốc tế để xóa đói giảm nghèo, Việt Nam có một số chương trình tín dụng nhắm vào mục tiêu xã hội, chủ yếu là đối tượng ở nông thôn và các tiểu doanh chứ không giải phóng tín dụng cho tư doanh có khả năng dùng tư bản làm đòn bẩy.

Và hai ách tắc là đất và tiền lại kèm nhau vì một lý do cụ thể. Khả năng thẩm xét rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn quá thô sơ, cơ quan cho vay không lượng định được tiềm năng sinh lời nên cứ "nắm người có tóc", là chỉ cho vay khi doanh nghiệp có tài sản cầm thế. Doanh nghiệp nhà nước có đất đai để vượt cửa ải đó, chứ tư doanh thì không, nên nước lại chảy về chỗ trũng dù nhiều doanh nghiệp nhà nước thực ra ít có triển vọng sinh lời cao nếu không được nhà nước bảo vệ.

Hỏi: Bây giờ, nói đến yếu tố thứ ba là nhân công. Tư doanh Việt Nam tìm nhân công ở đâu"

- Chúng ta đi vào ách tắc chung của cả xã hội là Việt Nam thiếu nhân công có tay nghề và có khi lại thừa viên chức thanh tra, kiểm soát và tay cò chạy việc bôi dầu cho bộ máy trơn tru. Trong lực lượng lao động thừa về lượng và kém về phẩm thì tư doanh phải cạnh tranh rất gay với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Nếu nhìn xa hơn viễn ảnh một năm thì đấy là ách tắc lớn khả dĩ cản trở sức cạnh tranh của Việt Nam với nước ngoài. Ta đụng vào vấn đề của giáo dục và đào tạo mà giới hữu trách trong nước nói là đang bị khủng hoảng.

Nhân đây, xin nói là nhiều người đã tự mê hoặc là Việt Nam có tỷ lệ biết đọc biết viết đến hơn 90% dân số nên cũng có mức dân trí được khen là cao so với mức sống. Đấy là một huyền thoại để ve vuốt tự ái dân tộc. Biết đọc biết viết rồi còn phải biết việc và biết phê phán nhà nước nữa. Khủng hoảng trong hệ thống giáo dục hiện nay là một cản trở cho phát triển.

Hỏi: Sau cùng, còn một yếu tố sản xuất khác là công nghệ hay kỹ thuật, tư doanh Việt Nam có bị ách tắc với yếu tố ấy hay không"

- Trong kinh tế hay kinh doanh, yếu tố kỹ thuật ấy là xuất xứ của năng suất. Nói chung, Việt Nam mở cửa trễ lại thiếu tự do nên có trình độ kỹ thuật về tổ chức, sản xuất và kinh doanh thấp. Khi không biết thì mình phải học. Ngoài giáo dục và đào tạo thì còn giải pháp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Nói chung, cho đến nay "học lóm" hay bắt chước nước ngoài vẫn là quy luật phổ biến vì hệ giáo dục và đào tạo quá kém cỏi.

Doanh nghiệp nước ngoài có năng suất cao nhất và từ đấy có thể là trung tâm phổ biến kiến năng - tức là sự kiến thức và năng lực - cho doanh nghiệp trong nước. Cho đến nay, tư doanh tiếp nhận được nhiều hơn quốc doanh vì có tự do biến báo áp dụng cao hơn doanh nghiệp nhà nước. Nhưng, vì chiến lược phát triển các khu chế xuất hay khu công nghiệp nên chuyển giao kỹ thuật thường thu hẹp về nội dung và về địa dư trong các khu vực ấy thôi. Một sự bù đắp cho đến nay chưa thẩm định được số lượng là chuyển giao kỹ thuật từ người Việt ở nước ngoài về cho thân nhân đang mở ra kinh doanh trong nước, chưa kể tới tiền bạc hàng năm gửi về.

Hỏi: Bây giờ, sau khi chẩn bệnh rồi, ta đi qua giai đoạn kê toa bốc thuốc. Ông nghĩ sao về những giải pháp Việt Nam cần áp dụng và sớm áp dụng"

- Đầu tiên là từ cái đầu, ở trên cùng. Đó là hoàn toàn thay đổi tư duy và thành thật giải phóng tư doanh. Việt Nam có tiến hay không là nhờ một khối lượng tư doanh đông đảo và có khả năng lẫn ý thức của một thành phần trung lưu, thành phần xưa kia bị kết tội là tư sản. Họ sẽ tiếp nhận nguồn lực lao động từ nông thôn và hiện đại hóa Việt Nam trong thế cạnh tranh có thắng lợi với bên ngoài. Đừng sợ tư doanh sẽ đe dọa độc quyền chính trị của chính quyền.

Sau đó, ta mới đi vào loại giải pháp chuyên môn mà thế giới đã giúp Việt Nam thi hành từ cả chục năm nay rồi. Cứ theo quy trình của bốn yếu tố vừa nói thì phải cải cách chế độ điền địa để việc chuyển hóa mục tiêu sử dụng đất đai được tiến hành quy mô và đồng bộ trên cả nước. Từ đấy, phải quan niệm lại vai trò của đất đai và quyền tư hữu. Nếu không thì chỉ có đảng viên thừa đất làm nông trang hưởng nhàn, mà tư doanh không có đất phát triển tiềm lực.

Hỏi: Sau đó, cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng để khai thông ác tắc về tín dụng phải không"

- Thưa cùng với việc cải cách đó còn cần nâng cao khả năng thẩm định hồ sơ cho vay và mở ra thị trường huy động vốn cho tư nhân. Nghĩa là phải cải tổ cả hệ thống luật lệ liên hệ đến quyền sử dụng đất, luật lệ về thị trường đất đai và tín dụng, thị trường tư bản. Nhìn rộng ra thì phải nâng cấp hạ tầng cơ sở yểm trợ kinh doanh, như luật lệ về quyền tư hữu, quyền thông tin, hoặc hệ thống vận chuyển và viễn thông - kể cả giá điện thoại quá cao và chế độ kiểm soát Internet nữa. Tới nay, người ta mới chỉ nghĩ đến việc yểm trợ và bảo vệ doanh nghiệp nhà nước mà thôi.

Hỏi: Và sau cùng, ta nói đến lực lượng lao động và năng suất của lao động"

- Ta không quên sự chuyển dịch dân số từ nông thôn về thành thị, từ nông nghiệp qua công nghiệp và dịch vụ. Trong vài năm tới, Việt Nam phải đón đầu vấn đề ấy và nâng cao khả năng sản xuất của một dân số rất trẻ và năng động. Chất lượng của lao động vì vậy là vấn đề của cả xã hội. Và trong kinh doanh, có lời có lỗ, ta mới chỉ thấy hệ thống an sinh và trợ cấp trong khu vực nhà nước, tư doanh vẫn chưa có. Khi thất nghiệp, làm sao sống còn và làm sao học được nghề khác để kịp thời quay trở lại thị trường lao động sẽ thay đổi rất nhanh sau này" Đấy cũng là một vấn đề.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chuyện lẽ ra chẳng có gì. Cho đến khi bị chính trị xâm đoạt. Vào một ngày mùa hè, Erika Lee, 35 tuổi và là một cư dân của thành phố Springfield, tức Cánh Đồng Xuân, thuộc tiểu bang Ohio, đưa lên trên trang Facebook của cô một tin đồn bâng quơ cô mới nghe được. Điều cô nghe được là con mèo của một người hàng xóm đã biến mất, và rằng có thể một trong những người nhập cư Haiti hàng xóm của cô đã bắt con mèo đó. Cô đưa tin đồn đó lên trang Facebook của mình.
Tự cổ chí kim, những hiểu biết và phát triển mới trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật thường khiến chúng ta vừa thấy thú vị và ấn tượng, vừa thấy lo lắng, sợ hãi. Mới đây, OpenAI đã dự đoán rằng trong vòng 10 năm tới sẽ xuất hiện “siêu trí tuệ nhân tạo” (Artificial superintelligence). Để chuẩn bị, hãng này đang tập trung xây dựng một đội ngũ chuyên gia mới, và dành 20% tài nguyên điện toán của mình để đảm bảo rằng các hệ thống AI sẽ hoạt động phù hợp và tôn trọng các tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức của con người.
Tháng 9 là tháng có nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Sau đây là một số ngày đáng chú ý. 16 tháng 9. - 1994 - Ngày Ozone thế giới, nâng cao nhận thức về tầng ozone3. - 1970 - Jimi Hendrix qua đời vì dùng thuốc quá liều. - 1620 - Mayflower khởi hành đến Tân Thế giới. Con tàu Anh được gọi là Mayflower khởi hành từ Plymouth trong chuyến hành trình đến Châu Mỹ. Trên tàu có 102 hành khách đang tìm kiếm cuộc sống mới ở Tân Thế giới. Con tàu mất 10 tuần để băng qua Đại Tây Dương trước khi thả neo gần Cape Cod, Massachusetts.
Hiếm ai có thể hình dung cơn bão tin giả (fake news) hoành hành khắp nước Mỹ trong tám năm qua, từ cuộc bầu cử 2016, lại thổi đến từ Veles – một thị trấn xa xôi nằm phía tây nam châu Âu, ở North Macedonia, trên dòng sông Vardar êm ả. Không nói cũng không ai biết. Những câu chuyện trong bóng tối này mãi mãi không bước ra ánh sáng, hoặc cũng chỉ rất ít người biết đến, thấu rõ đường đi nước bước của thánh địa tin giả này, cho đến khi cuốn sách “The Book Of Veles” của nhiếp ảnh gia Jonas Bendiksen được xuất bản. Ông là người Na-Uy, thành viên của hội nhiếp ảnh danh giá Magnumphoto.
Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng sắc đẹp sẽ mang lại lợi thế trong các mối quan hệ, học tập và công việc. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu việc “không được đẹp đẽ” không chỉ là một điều bất lợi mà còn bị coi là phạm pháp? Từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, ở Hoa Kỳ từng có các luật gọi là “luật xấu xí” (ugly laws), cấm những người có vẻ ngoài “khó coi” xuất hiện ở các nơi công cộng.
Dự án 2025 đề ra những thay đổi sâu rộng trong toàn bộ chính phủ liên bang, đặc biệt trong chính sách kinh tế và xã hội, và vai trò của chính phủ và các cơ quan liên bang. Trong những thay đổi đó có cả việc cắt giảm tài trợ cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ), tháo dỡ cơ quan điều tra FBI và Bộ An ninh Nội địa, hủy bỏ các quy định về môi trường và biến đổi khí hậu để giúp gia tăng sản xuất nhiên liệu như dầu hỏa, cùng loại bỏ các Bộ Giáo dục và Thương mại ra khỏi nội các chính phủ. Hãng thông tấn Associated Press có một bài tóm tắt song rành mạch những chương trình của Dự án 2025 đối nội cũng như đối ngoại, tại đường dẫn này. Bao gồm trong Dự án 2025 cũng gồm cả việc lập tức dùng Đạo luật nổi dậy năm 1807 để tổng thống có thể ra lệnh cho quân đội vào dẹp các vụ biểu tình chống đối chính phủ, cùng chỉ đạo Bộ Tư pháp truy lùng các đối thủ của ông Trump. Chính ông Trump cũng đã từng tuyên bố với những người ủng hộ ông là ông là người sẽ giúp họ phục hận. Theo luật hiện hành, quân đội không đượ
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt - Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này? Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay.
Hiểu cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đòi hỏi phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, thay vì xem xét nó một cách tách biệt. Được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1953, cải cách ruộng đất bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các sự kiện biến động sau Thế chiến II. Sự kết thúc của cuộc chiến, nạn đói năm 1945, và cuộc đấu tranh sau đó để giành độc lập khỏi ách thực dân Pháp đã tạo ra một không khí cách mạng ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954) đã làm tăng sự cấp bách cho những thay đổi xã hội và kinh tế triệt để khi Việt Minh tìm cách củng cố quyền lực và giải quyết các bất bình giữa người giàu và người nghèo do khai thác thực dân gây ra.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954. Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển. Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.