Hôm nay,  

Phát Triển Tư Doanh

1/18/200600:00:00(View: 6157)
-Tư doanh chỉ xuất hiện trong tư thế du kích và sẵn sàng cuốn trọn cơ sở của mình trong manh chiếu để bỏ chạy. Mãi đến gần đây...

Trong bài tổng kết thứ ba về tình hình kinh tế Việt Nam, kỳ này Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ trình bày về phát triển tư doanh qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Thanh Quan thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, trong loạt bài tổng kết về kinh tế Việt Nam và nêu ra một số viễn ảnh cho năm 2006 đang khởi đầu, kỳ này, chúng ta xin nói về một lãnh vực mới nổi là tư doanh của Việt Nam. Trước hết, xin ông cho biết một số những nét chính của khu vực này.

- Tư doanh tại Việt Nam là một khu vực cũ mà lại rất mới. Cũ vì thời nào cũng có, nhưng mới vì sau 1975, trong nông nghiệp, người ta phải đi vào hợp tác hóa, trong công thương nghiệp thì bị cải tạo. Tư doanh chỉ xuất hiện trong tư thế du kích và sẵn sàng cuốn trọn cơ sở của mình trong manh chiếu để bỏ chạy. Mãi đến gần đây thành phần kinh tế này mới được phép xuất hiện, rồi hiện hữu, sau khi lãnh đạo Việt Nam chấm dứt việc "cải tạo" để nói đến "đổi mới."

Hỏi: Ông nói là lãnh đạo Việt Nam bắt đầu nói đến đổi mới, nhưng họ thực sự có tiến hành một số thay đổi khiến tư doanh ngày nay đã có một vị trí khả quan hơn trong nền kinh tế chứ"

- Thưa vâng, nhưng từ nói đến làm luôn luôn có khoảng cách, và thực tế thì tư doanh mới chỉ xác định được tiềm năng của mình từ đợt cải cách năm 2000 trở về sau. Trước đấy, tư doanh bành trướng đến đâu thì nhà nước lùi đến đó và vừa lùi vừa làm luật để lập ra quy chế mới. Một thí dụ nổi bật trong năm qua là việc nhà nước tìm cách đúc kết lại hệ thống luật lệ phân tán vào bộ Luật Doanh nghiệp chung cho tư doanh, quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. "Dân chạy trước nhà nước theo sau" vẫn là quy luật xã hội phổ biến. Nếu nhìn về quá khứ thì tư doanh nay dễ thở hơn xưa, nhưng nhìn ra ngoài thì Việt Nam vẫn chậm lụt, vì vậy kém sức cạnh tranh. Trong viễn ảnh hội nhập với kinh tế thế giới thì đấy là mối lo.

Hỏi: Dù sao, tư doanh Việt Nam có góp phần đáng kể cho đà tăng trưởng kinh tế trong những năm qua phải không"

- Đáng kể vô cùng, vì cùng một ngạch số đầu tư, doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều việc làm hơn và có tỷ lệ đóng góp cao hơn doanh nghiệp nhà nước cho hoạt động xuất khẩu. Tư doanh hiện đóng góp tới một phần ba sản lượng công nghiệp của Việt Nam và thu hút hơn 20% lực lượng lao động. Không có tư doanh, mỗi năm kinh tế Việt Nam không thể nào tạo thêm một triệu rưởi việc làm mới, và thất nghiệp và khủng hoảng đã bùng nổ từ lâu.

Điều đáng buồn là thành phần kinh tế ấy vẫn bị chặn đà phát triển và nếu Việt Nam không kịp cải cách thì sau khi được gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào năm tới thì sẽ gặp nhiều khó khăn vì tư doanh phải chạy đua với cái cối đá giàng vào chân. Có nối sợi dây cho dài hơn một chút mà gọi đó là cải cách thì cũng chưa giải quyết được vấn đề.

Hỏi: Bây giờ ta mới đi vào phần chính của đề tài, theo ông nhận xét thì đâu là những trở ngại đang chặn đà phát triển của tư doanh Việt Nam"

- Tôi xin cứ đi từ nguyên tắc vào tới thực tế. Doanh nghiệp tại Việt nam cần những gì để thành công" Tôi nhìn ra bốn yếu tố chính là đất đai, tín dụng, nhân công và kỹ thuật hay công nghệ về tổ chức, sản xuất và kinh doanh.

Doanh nghiệp của nhà nước không bị ách tắc về đất đai vì nguyên lý quái gở là "đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý" được ghi trong Hiến pháp. Nhà nước quản lý theo kiểu cho phép doanh nghiệp nhà nước rộng quyền sử dụng, buôn bán và trục lợi. Các doanh nghiệp còn lại, của tư doanh Việt Nam và nước ngoài thì không. Đấy là một trở ngại và một nguyên ủy của tham nhũng. Vấn đề này sẽ gây hậu quả đáng ngại vì tiến trình kỹ nghệ hóa và đô thị hóa tất yếu sẽ thay đổi mục tiêu sử dụng đất, từ nông nghiệp qua công nghiệp và dịch vụ. Mỗi lần chuyển đổi mục tiêu là một ách tắc và cơ hội tham nhũng, những gì đang xảy ra tại Trung Quốc cho thấy trước những gì sẽ xảy ra tại Việt Nam.

Hỏi: Đó là về chuyện đất đai. Thưa ông, còn về yếu tố sản xuất kế tiếp là tín dụng thì sao"

- Chúng ta cũng có một lệch lạc tương tự. Đó là bốn ngân hàng quốc doanh cung cấp đến hơn 70% khối lượng tín dụng cho nền kinh tế thì lại tập trung dồn cho doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nước ngoài thì có nguồn vốn châm vào từ bên ngoài nên không bị ách tắc ấy, còn lại tư doanh vẫn xếp hàng vay vốn, hoặc huy động vốn từ gia đình hoặc thân nhân ở nước ngoài. Vì vậy, ta thiếu doanh nghiệp tư nhân loại trung và hiếm có doanh nghiệp loại lớn.

Hỏi: Nhưng dù sao chính quyền tại Việt Nam cũng có chương trình tín dụng theo diện chính sách để giúp đỡ người dân, chương trình ấy không có kết quả gì sao"

- Thưa có chứ. Do khuyến cáo của quốc tế để xóa đói giảm nghèo, Việt Nam có một số chương trình tín dụng nhắm vào mục tiêu xã hội, chủ yếu là đối tượng ở nông thôn và các tiểu doanh chứ không giải phóng tín dụng cho tư doanh có khả năng dùng tư bản làm đòn bẩy.

Và hai ách tắc là đất và tiền lại kèm nhau vì một lý do cụ thể. Khả năng thẩm xét rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn quá thô sơ, cơ quan cho vay không lượng định được tiềm năng sinh lời nên cứ "nắm người có tóc", là chỉ cho vay khi doanh nghiệp có tài sản cầm thế. Doanh nghiệp nhà nước có đất đai để vượt cửa ải đó, chứ tư doanh thì không, nên nước lại chảy về chỗ trũng dù nhiều doanh nghiệp nhà nước thực ra ít có triển vọng sinh lời cao nếu không được nhà nước bảo vệ.

Hỏi: Bây giờ, nói đến yếu tố thứ ba là nhân công. Tư doanh Việt Nam tìm nhân công ở đâu"

- Chúng ta đi vào ách tắc chung của cả xã hội là Việt Nam thiếu nhân công có tay nghề và có khi lại thừa viên chức thanh tra, kiểm soát và tay cò chạy việc bôi dầu cho bộ máy trơn tru. Trong lực lượng lao động thừa về lượng và kém về phẩm thì tư doanh phải cạnh tranh rất gay với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Nếu nhìn xa hơn viễn ảnh một năm thì đấy là ách tắc lớn khả dĩ cản trở sức cạnh tranh của Việt Nam với nước ngoài. Ta đụng vào vấn đề của giáo dục và đào tạo mà giới hữu trách trong nước nói là đang bị khủng hoảng.

Nhân đây, xin nói là nhiều người đã tự mê hoặc là Việt Nam có tỷ lệ biết đọc biết viết đến hơn 90% dân số nên cũng có mức dân trí được khen là cao so với mức sống. Đấy là một huyền thoại để ve vuốt tự ái dân tộc. Biết đọc biết viết rồi còn phải biết việc và biết phê phán nhà nước nữa. Khủng hoảng trong hệ thống giáo dục hiện nay là một cản trở cho phát triển.

Hỏi: Sau cùng, còn một yếu tố sản xuất khác là công nghệ hay kỹ thuật, tư doanh Việt Nam có bị ách tắc với yếu tố ấy hay không"

- Trong kinh tế hay kinh doanh, yếu tố kỹ thuật ấy là xuất xứ của năng suất. Nói chung, Việt Nam mở cửa trễ lại thiếu tự do nên có trình độ kỹ thuật về tổ chức, sản xuất và kinh doanh thấp. Khi không biết thì mình phải học. Ngoài giáo dục và đào tạo thì còn giải pháp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Nói chung, cho đến nay "học lóm" hay bắt chước nước ngoài vẫn là quy luật phổ biến vì hệ giáo dục và đào tạo quá kém cỏi.

Doanh nghiệp nước ngoài có năng suất cao nhất và từ đấy có thể là trung tâm phổ biến kiến năng - tức là sự kiến thức và năng lực - cho doanh nghiệp trong nước. Cho đến nay, tư doanh tiếp nhận được nhiều hơn quốc doanh vì có tự do biến báo áp dụng cao hơn doanh nghiệp nhà nước. Nhưng, vì chiến lược phát triển các khu chế xuất hay khu công nghiệp nên chuyển giao kỹ thuật thường thu hẹp về nội dung và về địa dư trong các khu vực ấy thôi. Một sự bù đắp cho đến nay chưa thẩm định được số lượng là chuyển giao kỹ thuật từ người Việt ở nước ngoài về cho thân nhân đang mở ra kinh doanh trong nước, chưa kể tới tiền bạc hàng năm gửi về.

Hỏi: Bây giờ, sau khi chẩn bệnh rồi, ta đi qua giai đoạn kê toa bốc thuốc. Ông nghĩ sao về những giải pháp Việt Nam cần áp dụng và sớm áp dụng"

- Đầu tiên là từ cái đầu, ở trên cùng. Đó là hoàn toàn thay đổi tư duy và thành thật giải phóng tư doanh. Việt Nam có tiến hay không là nhờ một khối lượng tư doanh đông đảo và có khả năng lẫn ý thức của một thành phần trung lưu, thành phần xưa kia bị kết tội là tư sản. Họ sẽ tiếp nhận nguồn lực lao động từ nông thôn và hiện đại hóa Việt Nam trong thế cạnh tranh có thắng lợi với bên ngoài. Đừng sợ tư doanh sẽ đe dọa độc quyền chính trị của chính quyền.

Sau đó, ta mới đi vào loại giải pháp chuyên môn mà thế giới đã giúp Việt Nam thi hành từ cả chục năm nay rồi. Cứ theo quy trình của bốn yếu tố vừa nói thì phải cải cách chế độ điền địa để việc chuyển hóa mục tiêu sử dụng đất đai được tiến hành quy mô và đồng bộ trên cả nước. Từ đấy, phải quan niệm lại vai trò của đất đai và quyền tư hữu. Nếu không thì chỉ có đảng viên thừa đất làm nông trang hưởng nhàn, mà tư doanh không có đất phát triển tiềm lực.

Hỏi: Sau đó, cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng để khai thông ác tắc về tín dụng phải không"

- Thưa cùng với việc cải cách đó còn cần nâng cao khả năng thẩm định hồ sơ cho vay và mở ra thị trường huy động vốn cho tư nhân. Nghĩa là phải cải tổ cả hệ thống luật lệ liên hệ đến quyền sử dụng đất, luật lệ về thị trường đất đai và tín dụng, thị trường tư bản. Nhìn rộng ra thì phải nâng cấp hạ tầng cơ sở yểm trợ kinh doanh, như luật lệ về quyền tư hữu, quyền thông tin, hoặc hệ thống vận chuyển và viễn thông - kể cả giá điện thoại quá cao và chế độ kiểm soát Internet nữa. Tới nay, người ta mới chỉ nghĩ đến việc yểm trợ và bảo vệ doanh nghiệp nhà nước mà thôi.

Hỏi: Và sau cùng, ta nói đến lực lượng lao động và năng suất của lao động"

- Ta không quên sự chuyển dịch dân số từ nông thôn về thành thị, từ nông nghiệp qua công nghiệp và dịch vụ. Trong vài năm tới, Việt Nam phải đón đầu vấn đề ấy và nâng cao khả năng sản xuất của một dân số rất trẻ và năng động. Chất lượng của lao động vì vậy là vấn đề của cả xã hội. Và trong kinh doanh, có lời có lỗ, ta mới chỉ thấy hệ thống an sinh và trợ cấp trong khu vực nhà nước, tư doanh vẫn chưa có. Khi thất nghiệp, làm sao sống còn và làm sao học được nghề khác để kịp thời quay trở lại thị trường lao động sẽ thay đổi rất nhanh sau này" Đấy cũng là một vấn đề.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
Hãy tưởng tượng bạn là một người thợ mỏ khai thác đồng tại Đông Nam Âu Châu vào năm 3,900 trước Công Nguyên. Mỗi ngày, bạn phải gồng mình kéo từng tảng quặng qua những đường hầm chật hẹp và ngột ngạt. Cuộc sống cứ thế trôi qua trong nỗi mỏi mệt rã rời và sự đơn điệu không hồi kết. Nhưng rồi một chiều nọ, điều kỳ lạ xảy ra: một anh bạn đồng nghiệp xuất hiện với một thứ trông thật lạ mắt, và anh ta thản nhiên kéo theo đống quặng gấp ba lần trọng lượng cơ thể mình – chỉ trong một chuyến đi.
Làn sóng tranh luận dữ dội đang diễn ra xoay quanh câu hỏi: liệu những gì đang xảy ra tại Gaza kể từ tháng 10 năm 2023 có phải là hành vi diệt chủng hay không? Vấn đề này đã được đưa ra trước Tòa Án Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ), Nam Phi đệ đơn kiện Israel, cáo buộc quốc gia này đã phạm tội diệt chủng. Phiên tòa bắt đầu từ tháng 12 năm 2023, nhưng đến nay ICJ vẫn chưa đưa ra phán quyết cuối cùng.
Ngày 27/5 vừa qua, trên mạng xã hội, nhiều người đã đăng lời chúc mừng sinh nhật gửi tới tù nhân Phạm Đoan Trang. Trước đó vài tuần, một tù nhân nổi tiếng khác là Trịnh Bá Phương đã bị khởi tố thêm tội danh "tuyên truyền chống Nhà nước" khi đang ở tù. Những dòng tin này nhắc nhở rằng tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là những vấn đề nhức nhối tại Việt Nam, 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.
Sáng thứ Bẩy ngày 24 tháng 5 vừa qua, trong buổi lễ tốt nghiệp tại vận động trường Michie của Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ ở West Point, khi chuẩn tướng Rogelio Garcia, chỉ huy trưởng Học Viện, tuyên bố giải tán khóa 2025, hàng ngàn chiếc mũ képi trắng được các học viên của khóa tung lên trời. Tiếng reo hò tở mở từ các tân thiếu úy đang đứng dưới sân cỏ và thân nhân của họ trên khán đài tạo nên một quang cảnh với âm thanh vừa đẹp mắt, vừa tưng bừng, vừa cảm động.
Đoàn Viết Hoạt sanh năm 1942 tại Nam định. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm 1965 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sàigòn ban Anh Văn. Năm 1966 lập gia đình với chị Trần Thị Thức, một nữ sinh viên trong phong trào sinh viên Saigon lúc bấy giờ. Năm 1967 ĐVHoạt du học Hoa Kỳ về môn Tổ Chức và Quản Trị Đại Học tại Đại học Florida State (FSU), Tallahassee, Florida. Năm 1971, đậu Ph.D. về Giáo Dục. Sau đó, Đoàn Viết Hoạt trở về nước giữ chức vụ Phụ tá Viện trưởng tại Viện Đại học Vạn Hạnh cho đến 30 tháng Tư, 1975.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.