Hôm nay,  

Di Dân Việt Và Lễ Độc Lập Mỹ

7/8/200600:00:00(View: 4345)

Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495

Đường phố khắp nơi trên đất Mỹ đang chào đón ngày Độc Lập với cờ Hoa Kỳ và nhất là những quầy bán pháo tràn ngập. Nhân ngày Độc Lập Hoa Kỳ, báo chí cũng nhắc đến thổ dân da đỏ, những người có mặt đầu tiên trên đất Mỹ, và những người di dân đầu tiên từ khắp nơi trên thế giới đến lập nghiệp. Trong những cộng đồng di dân quan trọng, người ta đã nói đến cộng đồng di dân Việt Nam. Nhân ngày lễ đặc biệt này, Văn phòng Robert Mullins International xin hân hạnh giới thiệu bài viết "Di Dân Việt Và Lễ Độc Lập Mỹ" của nhà văn Giao Chỉ.

"Một lần nữa chúng ta chào đón July 4 hàng năm. Ngày 4 tháng 7 là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Ngày Mỹ quốc đưa ra bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu cuộc chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc sau 6 năm. Anh và Mỹ ký thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đã chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chủng Quốc.

Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta cần tìm hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Các di dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ đã được dự ngày kỷ niệm 200 năm lập quốc vào năm 1976. Đến bây giờ nước Mỹ đã già thêm 30 năm. Dù mới có hơn 200 năm nhưng lịch sử trẻ trung của Hiệp Chủng Quốc rất phong phú và cũng rất độc đáo. Hoa Kỳ là quốc gia bao gồm tất cả các sắc dân, các ngôn ngữ, các tập tục văn hóa. Nước Mỹ đã có các kỷ niệm vừa hung bạo vừa nhân từ. Tiêu diệt da đỏ, bắt da đen làm nô lệ, kỳ thị da vàng, đem quân đi làm cảnh sát trên thế giới, đi đến đâu là gây sóng gió ở đó. Hoa Kỳ cũng là quốc gia phát huy tự do dân chủ toàn cầu, viện trợ kinh tế, quân sự, giáo dục, xã hội, văn hóa cho toàn thể các quốc gia chậm tiến trên thế giới. Và bây giờ vào thời điểm 2005, việc truyền bá tự do và dân chủ ở Trung Đông đang gặp nhiều kinh nghiệm đắng cay.

Biên cương của Hoa Kỳ trên địa cầu là một vùng đất bao la tiếp giáp với hai đại dương Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ là ải địa cầu trấn giữ Bắc Băng Dương. Biên giới không gian của Hoa Kỳ lên đến mặt trăng và Mỹ quốc cũng đã đặt cọc đất trên Hỏa tinh. Hai ngàn vệ tinh kinh tế thương mại và quân sự của Hoa Kỳ canh gác toàn vùng khí quyển của quả đất. Đế quốc nhân văn của Hiệp Chủng Quốc thống trị thế giới bằng các tòa đại sứ và lãnh sự quán luôn luôn tấp nập các khách hàng vào xin visa.

Cơ sở ngoại vi của các đại sứ quán Hoa Kỳ là những chỗ bán thức ăn Fast Food McDonald, Coke, nhạc Rock và quần Jeans. Mỹ phát thực phẩm cho dân nghèo toàn thế giới nhưng đi đến đâu cũng bị đuổi về nhà: Yankee go home.

Đó là Hoa Kỳ ngày nay, sau 230 năm lập quốc. Đó là đất nước mà chúng ta đang mang nhãn hiệu công dân có đứng lên tuyên thệ bảo vệ và tuyệt đối trung thành.

Dù muốn hay không, chúng ta cũng nên biết qua lịch sử lập quốc của quê hương mà phần đông chúng ta sẽ cùng các thế hệ tiếp theo ở lại đời đời.

Một câu hỏi đặt ra: Ai là người Mỹ đầu tiên trên đất Mỹ"

Câu trả lời của các nhà nhân chủng học cho biết 12 ngàn năm trước, khi các lục địa còn dính liền cuối thời băng giá thì Á châu và Mỹ châu nối tiếp ở phía Bắc. Con người tiền sử Á Châu đi tìm đường sống đã từ Á qua Mỹ. Sau đó quả đất chuyển đổi, băng tan, nước biển dâng cao và hai lục địa không còn dính liền nhau nữa. Các người Á châu tiền sử ở lại và trở thành thủy tổ của các bộ lạc ở Bắc Mỹ.

Nhiều nền văn minh đã được kiến tạo, nhiều bộ lạc đã tàn lụi. Sau cùng chỉ còn các bộ lạc da đỏ tồn tại cho đến thời kỳ năm 1500 các sắc dân Tây phương mới đến Mỹ bằng đường biển. Nổi danh nhất là nhà hàng hải Columbus năm 1492 đi tìm Á châu và khám phá ra Mỹ châu. Rồi tiếp theo là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh Cát Lợi, Pháp, Đức rồi đến Nga và các quốc gia Đông Âu.

Các cuộc chiến đẫm máu, triền miên ở tân lục địa giữa người địa phương và dân giang hồ mới đến. Chiến tranh giữa các thế lực xâm lấn Tây phương. Sau cùng Anh quốc ổn định được phần lớn miền Đông Hoa Kỳ và các di dân bắt đầu lên đường. Con tàu Hoa Tháng Năm tức Mayflower nổi tiếng đến Mỹ năm 1620 vỏn vẹn có 35 người trở thành biểu tượng của cuộc định cư trên đất mới.

Năm 1621 di dân được mùa đã cùng tổ chức Lễ Tạ Ơn và ăn uống với dân da đỏ trong một lễ Thanksgiving đầu tiên của nhân loại.

Nhưng rồi những ngày vui qua mau. Thổ dân tại Mỹ chết dần vì bị giết, bị đói, bị bệnh, có thể do các mầm bệnh từ Tây phương đem đến.

Trong khi đó từ năm 1620 đến 1732 tức là hơn 100 năm. Một nước Mỹ thuộc Anh đã hình thành với 13 tiểu bang liên hiệp ở miền Đông. Phần lớn làm nghề nông, trồng thuốc lá, trà, và lúa. Các vùng khác thuộc Tây Ban Nha, Pháp vẫn còn tranh chấp.

Cuộc chiến giữa Pháp và Anh giành đất trong 7 năm từ 1754. Sau cùng Anh thắng và mở rộng biên cương thuộc địa của đế quốc hùng cường nhất thế giới.

Tiếp theo nước Anh cần tiền cho mẫu quốc nên đánh thuế các thuộc địa, thu tiền các nhà sản xuất và các đồn điền tại Hoa Kỳ.

Chính sách thuế của Anh ban hành năm 1774 trở thành mầm mống cho cuộc chiến dành độc lập tại Hoa Kỳ. Tướng Washington nhận trách nhiệm lãnh đạo chiến tranh cách mạng vào năm 1775 và chính thức đứng ra tuyên bố độc lập 1776.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Thomas Jefferson đại diện tiểu bang Virginia viết ra lúc ông 33 tuổi được coi là một áng văn tuyệt tác nhất của nhân loại và mở đầu cuộc chiến giành độc lập cho đến chiến thắng cuối cùng bằng hiệp định Paris 1782.

Tiếp theo Hoa Kỳ có 5 năm xây dựng dân chủ từ 1782 - 1787 để Hiến Pháp ra đời với 9 tiểu bang chính thức rồi đến 13 tiểu bang thỏa hiệp. Những lá cờ Mỹ đầu tiên có 9 ngôi sao rồi 13 ngôi sao và bây giờ là 50 ngôi sao.Suốt từ buổi bình minh của Hiệp Chủng Quốc cho đéán nay, nước Mỹ đã trải qua biết bao nhiêu là biến động.Từ hơn 4 triệu dân vào năm 1800 trở thành gần 300 triệu vào năm 2005. Trên giấy tờ tính đến nay là 229 năm lập quốc nhưng thực sự quốc gia này đã nảy mầm từ trên 300 năm.

Phải chăng Hoa Kỳ là một đĩa rau trộn gồm đủ mọi sắc thái nhưng tía tô vẫn là tía tô, rau giấp cá vẫn nồng nàn mùi tanh của biển mặn. Hay đây là nồi cháo mà mọi thứ thực phẩm đã được hòa tan thành một hương vị mới. Cái đó còn tùy hoàn cảnh, địa phương và thời gian.

Nước Mỹ đã trải qua các giai đoạn hành động tàn nhẫn với các sắc dân thiểu số. Vào thế kỷ thứ 19, da trắng buộc dân da đỏ phải tập trung vào các khu vực ấn định. Thảm kịch diễn ra trên con đường mòn được gọi là: Đường mòn nước mắt.

Da đỏ già trẻ lớn bé đều phải ra đi, bỏ nhà cửa, vườn trại để vào các khu đồng khô cỏ cháy xa cách vạn dặm. Hàng chục ngàn người đã chết.

Trong khi đó ở miền Nam Hoa Kỳ, dân da đen bị bắt làm nô lệ đem từ Phi châu qua đã trở thành một lực lượng lao động quan trọng. Những bàn tay đen đủi đã xây dựng nên nền nông nghiệp miền Nam nuôi cả nước Mỹ vào thời kỳ lập quốc với những vườn bông trắng xóa. Nhưng cũng chính da đen là vấn nạn cho cuộc chiến tranh tương tàn Nam Bắc. Những người da đen bỏ trốn các nông trại đã bị đánh roi cho đến chết. Câu chuyện Uncle Tom với bài ca da đen lừng danh: Let my people go - Hãy cho dân tôi đi. Trở thành một vấn nạn trong lương tâm Hoa Kỳ.Da đỏ xin ở lại thì bị đuổi đi. Da đen xin đi thì bị giữ lại. Ngay khi nội chiến chấm dứt, da đen được giải phóng mà vẫn còn bị kỳ thị. Cuộc chiến đấu vĩ đại của một đàn bà lẩm cẩm da đen năm 1955 không chịu ngồi phía sau xe bus đã trở thành một cuộc tổng đình công tẩy chay xe bus tại Hoa Kỳ. Từ cuộc đình công này, da đen có được một nhà lãnh đạo đầy huyền thoại là mục sư King mà tên tuổi trở thành một ngày quốc lễ.

Rồi đến lịch sử Tây tiến làm đường xe lửa đem da vàng Nhật Bản và Trung Hoa nhập cuộc. Các tiền nhân di dân châu Á cũng đã ngậm đắng nuốt cay ở miền Tây Hoa Kỳ trong suốt thời lịch sử cận đại.

Sau cùng đến lượt chúng ta. Việt Nam có hơn một triệu người tại Hoa Kỳ. Sau đợt di tản 75 tiếp đến là 10 năm thuyền nhân từ 1980 đến 1990 rồi là các HO, ODP nhập cư cho đến cuối thế kỷ thứ 20. Mười quận hạt có dân số đông đảo nhất là Orange, Santa Clara, Los Angeles, Houston, San Diego, Seattle, Oakland, DC, Dallas và Fort Worth (Texas).

Với 5 vị tổng thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là Cuộc chiến của các vị tổng thống - The War of the Presidents. Ý nói là cuộc chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự gì vào nước Mỹ và dân Mỹ. Làn sống chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống đường hàng triệu người.

Năm 1967 sa lầy tại chiến trường Việt Nam, chính ông Johnson đã uất ức nói rằng: Đây không phải là cuộc chiến của riêng tôi. Đây là cuộc chiến của nước Mỹ, nếu ngày mai tôi chết đột quỵ, thì chiến tranh vẫn còn mãi với các anh.

Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là lòng dân của Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng hay sai, không cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng, hy sinh rất giới hạn. Đánh không xong thì rút, sống chết mặc bay. Từ các quan niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ.

Sau ông Ford, dân tỵ nạn lần lượt sống với 5 vị tổng thống của thời hậu chiến. Bắt đầu từ ông Carter, tổng thống thứ 39, ông già hiền lành đạo đức chính là vị ân nhân đầu tiên mở cửa nước Mỹ cho thuyền nhân từ các trại tỵ nạn vào Hoa Kỳ.

Khi đoàn biểu tình Việt Nam thắp nến đi trước Bạch Cung để than khóc cho thuyền nhân thì ông Carter đã mở cửa ban công ngó xuống vẫy tay chào. Nước mắt dân tỵ nạn Việt Nam di tản đợt đầu, nhỏ giọt xuống đại lộ Constitution đã làm động lòng ông tổng thống chuyên cất nhà Homeless.

Lệnh tổng thống ban ra từ đây các tàu chiến của hạm đội Bảy bắt đầu xua đuổi hải tặc và vớt người di tản, các phái đoàn Mỹ đến phỏng vấn tại trại tỵ nạn Đông Nam Á.

Rồi tiếp đến ông thứ 40 là Reagan suốt 8 năm đưa ra các đạo luật tỵ nạn, khởi sự các buổi thảo luận thả tù, để sau này ông Bush số 41 chỉ tiếp tục mở rộng tấm lòng nhân đạo.

Bước qua thập niên 90, triều đại Bill Clinton, tổng thống thứ 42 là thời kỳ của hòa giải và hàn gắn. Clinton mở đường hiệp thương, giải tỏa cấm vận, đưa tay dắt đường cho Hà Nội trở về với thế giới tự do. Sau cùng ông Clinton chấm dứt nhiệm kỳ bằng một chuyến công du cuối cùng dưới hình thức qua Việt Nam để trình diễn một màn Workshop dân chủ đi từ Hà Nội đến Sài Gòn.

Qua đến ông Bush hiện nay, vị tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ đã đem bài học Việt Nam ra để đánh trận Trung Đông.

Chúng ta không phải là sắc dân cuối cùng, và chúng ta không phải là sắc dân duy nhất có quê hương cố quốc. Di dân tỵ nạn Việt Nam có người mang theo quê hương, có người bỏ lại quê hương. Tùy theo hoàn cảnh và cảm nghĩ. Tuy nhiên quả thực chúng ta không thể khác những người di cư khác trong các trách nhiệm xây dựng đất mới.

Sắc dân nào cũng có những niềm tự hào của họ. Ai cũng có các hãnh diện về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ của cội nguồn.

Tuy nhiên, điều quan trọng là phong cách đối xử và tìm hiểu để hội nhập. Chúng ta phải cảm ơn những người đi trước đã mở đường. Kể cả người xấu lẫn người tốt đã sống và đã qua đi trong công cuộc chinh phục đất nước vĩ đại này.

Một lần nữa, đợt người Việt đầu tiên ở Mỹ sẽ là nhưng cây tràm cây đước giữ chặt đất cho một cộng đồng tương lai phát triển. Con cháu chúng ta sẽ vừa nhớ ơn ông cha đã đến đất này mà cũng không hổ thẹn về những đóng góp của chúng ta trong những giai đoạn đầu tiên. Bỏ lại phía sau con sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long và dãy Trường Sơn. Bây giờ ta phải làm quen với con sông Sacramento và rặng Rocky Mountain để có ngày con cháu ta sẽ phải đứng lên đáp lời sông núi mới.

Xin hãy công bình với hoàn cảnh. Mỗi năm hãy lưu tâm ngày 4 tháng 7 của Hoa Kỳ. Phải bước ra khỏi cái Ghetto của cộng đồng nhỏ hẹp. Tham dự vào cái xã hội vĩ đại đã đem phúc lợi cho chúng ta. Đó là cách hay nhất để xây dựng cùng một lúc cộng đồng tại Mỹ và quê hương bỏ lại ở Việt Nam. Bao gồm cả giấc mơ tự do và dân chủ".

Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 860AM, 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933, San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay qua Email: [email protected].

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê.
Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới.
Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn.
Sau khi sở di trú USCIS xác định bạn hợp lệ và đủ điều kiện để nhận con nuôi thông qua đơn I-800A, nhà cung cấp dịch vụ nhận con nuôi của bạn sẽ cung cấp thông báo chuẩn nhận, nghiên cứu gia cư và bất kỳ thông tin cần thiết nào khác cho cơ quan nhận con nuôi tại Việt Nam như một phần trong đơn xin nhận con nuôi của bạn . Cơ quan nhận con nuôi của Việt Nam sẽ duyệt đơn của bạn để xác định xem bạn có phù hợp và đủ điều kiện để nhận con nuôi theo luật của Việt Nam hay không.
Vào ngày 24 tháng 6 năm 2022, một tòa án Quận hạt Hoa Kỳ ở California đã yêu cầu Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ (USCIS) phải duyệt xét đơn I-526/E mới (Đơn xin di dân của Doanh nhân nước ngoài) từ việc đầu tư di dân thông qua các Trung tâm vùng EB-5 đã được ủy quyền trước đây. Đạo luật về Liêm chính và Cải tổ EB-5, một phần của Luật chi tiêu Omnibus, có hiệu lực vào ngày 15 tháng 3 năm 2022. Nó đã tái ủy quyền và thực hiện các thay đổi đối với chương trình Trung tâm vùng sau khi hết hạn. Quyết định của tòa án trong vụ Behring Regional Center LLC kiện Mayorkas đã tuân theo quyết định của Sở di trú rằng tất cả các Trung tâm vùng trước đây cần phải tìm kiếm sự tái ủy quyền sau khi chương trình được khôi phục.
Từ nhiều năm qua chúng ta đã thấy chính phủ Hoa Kỳ ưu đãi những thường trú nhân,bảo lãnh vợ/chồng, con cái độc thân trên và dưới 21 tuổi bằng cách xét nhanh hơn trước gần một nửa thời gian? Và thường trú nhân có thể xin miễn giảm (đơn I-601A) cho người phối ngẫu mà từ trước chỉ có công dân Hoa Kỳ mới đủ tiêu chuẩn lập mẫu đơn này.
Các loại chiếu khán tôn giáo R-1 có thể xin được bằng cách nộp đơn xin chiếu khán phi di dân theo cách thông thường ở Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Loại chiếu khán dành cho người di dân đặc biệt phục vụ tôn giáo cần phải nộp mẫu đơn I-360 và phải được cơ quan di trú tại Hoa Kỳ phê chuẩn. Sau khi được chấp thuận, người phục vụ tôn giáo này có thể xin ở lại Hoa Kỳ làm việc tôn giáo với quy chế thường trú nhân
Văn phòng Robert Mullins International thường nhận nhiều câu hỏi về di trú của độc giả và thân chủ. Chúng tôi sẽ lần lược đăng tải những câu hỏi tiêu biểu đa số quý vị có cùng một thắc mắc. Bài viết tuần này chúng tôi sẽ nói đến câu hỏi về sự khác biệt cũng như quyền lợi di trú và không-di-trú giữa hai loại chiếu khán B1/B2 chiếu khán tham quan du lịch, và WT, chiếu khán miễn thị thực.
Nhân Viên Lãnh Sự: Nhân viên lãnh sự chỉ được huấn luyện căn bản về luật di trú, thông thường chỉ tham dự khóa học 31 ngày để bắt đầu sự nghiệp của họ tại các Văn Phòng Ngoại Vụ. Họ cũng được huấn luyện để giải thích "những sự biểu lộ trên mặt" của đương đơn và làm sao có thể dựa vào bản năng của họ để quyết định số phận hồ sơ xin chiếu khán. Các nhân viên lãnh sự cũng như chúng ta - họ đôi khi cũng phạm lỗi lầm. Vấn đề đối với các đương đơn xin chiếu khán là những lỗi lầm của nhân viên Lãnh sự không dễ sửa và có thể mất nhiều thời gian để sửa.
Chiếu khán (visa) là giấy phép du hành đến Hoa Kỳ và các viên chức di trú tại phi trường ở Mỹ đều yêu cầu xuất trình giấy phép này để nhập cảnh Hoa Kỳ. Những cuộc phỏng vấn cấp chiếu khán được thực hiện nhằm giúp cho viên chức lãnh sự quyết định nếu đương đơn hợp lệ theo luật để được nhập cảnh Hoa Kỳ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.