Hôm nay,  

Ánh trăng trắng ngà và Bả Tửu Vấn Nguyệt

30/11/202216:42:00(Xem: 2506)
Tản mạn văn học

HangNga
Hằng Nga trong một bức tranh cổ đời Minh.

 

Tôi mới được người bạn gửi cho một câu hát, gợi nhớ đến một bài ca từ lâu đã trốn vào quên lãng: “Ta yêu cô Hằng đêm xưa xuống trần…”

 

Than ôi! Lâu rồi sao không còn thấy ai hát bài "Chú Cuội" của Phạm Duy nữa?

 

Trăng soi sáng ngời

Treo trên biển trời

Tình ơi

Một đàn con trai

Rủ đàn con gái

Ra ngồi nhìn trăng

Ra nghe chú cuội

Ngồi gốc cây đa

Cuội ơi

Để trâu ăn lúa

Nhìn mây theo gió

Miệng ca bồi hồi

Ta yêu cô Hằng

Đêm xưa xuống trần

Nàng ơi

Nàng về dương gian

Tìm người nuôi nấng...

 

Tuổi thơ Việt Nam thật đẹp sao!

 

Ôi, những ngày thuở thanh bình cùng nhau tung tăng rước đèn rằm tháng tám:

 

Ánh trăng trắng ngà

Có cây đa to

Có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ

Cuội ơi ta nói cho Cuội nghe

Ở trên cung mãi làm chi

Có con dế mèn

Suốt đêm canh thâu

Hát xẩm không tiền

Nên nghèo xác xơ...

 

Có còn ai hát xẩm, còn ai nghe hát xẩm?

 

Chạnh lòng tôi nhớ đến bài thơ của Lý Bạch tôi dịch đã lâu năm. Vì dịch sang thể hát nói nên cũng có viết thêm mấy vần lục bát làm Mưỡu cho đủ lệ bộ:

 

BẢ TỬU VẤN NGUYỆT

MƯỢN RƯỢU ĐÙA HẰNG NGA

 

MƯỠU

 

Hằng Nga nay mấy xuân xanh?

Nghi dung diễm lệ long lanh góc trời.

Nay ta gặp buổi thảnh thơi,

Dở bầu rượu ngỏ đôi lời cùng em.

 

HÁT

 

Ngừng chén hỏi trời xanh đôi ba điều thắc mắc,

Rằng mảnh gương vằng vặc đã bao năm?

Sao bắc thang vói mãi vẫn xa xăm?

Sao khắng khít, đón đầu đi đâu theo đến đấy?

 

Cô tập quỳnh lâu quang cung khuyết

孤 熠 瓊 樓 光 宫 闕

Không hồi phương chẩm vọng thuyền quyên (*)

空 回 芳 枕 望 嬋 娟

Thắp lung linh trên sóng giữa trời đêm,

Vừa hừng sáng vội len sau mây biếc,

 

Hằng Nga ạ, ta thương em đơn chiếc,

Quanh thỏ già giã thuốc có gì vui.

Ai nghìn xưa đã thấy dáng em soi ?

Ta ước thấy mắt môi thời son sắc !

 

Bao kẻ mãi theo em say sưa ngắm.

Ta nâng ly cao hứng hát vang vang,

Xin em soi mãi chén vàng

 

(*) Hai câu chữ Hán do người dịch viết thêm cho đầy khổ thơ hát nói. Tạm dịch: Ả Hằng một mình sáng soi trên cung khuyết lầu ngọc/ Ta luống công trăn gối trở mình ngắm vọng giai nhân.

 

Cụ Lý Bạch giá có ngắm trăng, có nhẩy xuống sông vớt vầng trăng đang chìm dưới nước, rồi viết thêm dăm ngàn câu thơ vấn nguyệt nữa, cũng không thể làm trẻ thơ Trung Hoa hạnh phúc bằng trẻ con Việt Nam khi chúng có các bài ca dao chị Hằng, chú Cuội đáng yêu, đáng mến, đẹp đẽ đến là vậy. Đọc thơ Cụ thì những lúc độc ẩm quả là hứng thú, tiêu tan hết cả mối vạn cổ sầu. Nhưng những bài đồng dao của tuổi thơ Việt Nam thì hạnh phúc theo mình đến cả một đời. Chẳng thế mà dù người Trung Hoa có kinh điển đến đâu, có bỏ công đến nghìn năm, luống cũng chẳng xóa được cái hồn mộc mạc của người dân quê Việt tộc? Thì cứ thử so sánh cách nhìn của mấy dòng thơ khác nhau. Cũng ngần ấy chuyện, nhưng ta nhìn theo cái duyên dáng của riêng ta.

 

Nguyên Tác:

 

把 酒 問 月, 李 白

Bả Tửu Vấn Nguyệt, Lý Bạch

 

青 天 有 月 來 幾 時,

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,

Trời Xanh có ả Hằng đến nay là tự bao giờ?

 

我 今 停 杯 一 問 之

Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!

Ta nay ngừng chén hỏi một câu cho rõ sự tình:

 

人 攀 明 月 不 可 得

Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,

Hà cớ gì tay vói mãi vẫn không tới ?

 

月 行 卻 與 人 相 隨

Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.

Mà chân bước đến đâu cũng lại thấy quấn bên mình?

 

皎 如 飛 鏡 臨 丹 闕,

Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,

Sáng như mảnh gương từ cửa son soi xuống

 

綠 煙 滅 盡 清 輝 發

Lục yên diệt tận thanh huy phát

Lúc khói biếc tan đi lại càng thêm lóng lánh

 

但 見 宵 從 海 上 來

Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,

Cứ đợi đến đêm lại thấy từ biển đến thăm

 

寧 知 曉 向 雲 間 沒

Ninh tri hiểu hướng vân gian một.

Khi trời vừa sáng lại trốn mất trong mây

 

白 兔 搗 藥 秋 復 春,

Bạch thố đảo dược thu phục xuân,

Gã thỏ trắng thì cứ giã thuốc hết thu lại sang xuân

 

嫦 娥 孤 棲 與 誰 鄰。

Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.

Mà nàng Hằng Nga mãi chơi đùa một mình biết bầu bạn cùng ai

 

今 人 不 見 古 時 月

Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,

Người đời nay thì chẳng ai biết mặt mũi vầng trăng cổ độ

 

今 月 曾 經 照 古 人。

Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.

Mà chính vầng trăng hôm nay thì đã từng chiếu lên người đời xưa

 

古 人 今 人 若 流 水,

Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,

Người đời xưa, đời nay cứ mãi như dòng nước chảy

 

共 看 明 月 皆 如 此。

Cộng khan minh nguyệt giai như thử.

Cùng theo nhau mà ngắm vầng trăng xinh đẹp ấy

 

唯 願 當 歌 對 酒 時,

Duy nguyện đương ca đối tửu thì,

Ta chỉ ước ao mỗi một điều là khi ta rót rượu cao hứng hát

 

月 光 常 照 金 樽 裡

Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý

Ánh trăng sẽ mãi soi chiếu vào chén vàng

 

– Tô Thẩm Huy

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.
Tôi để ý đến hắn, không phải vì cái tên với cái họ “lạ”, họ Mai. Cũng chẳng phải vì hắn là công tử con nhà giàu. Nghe nói ba hắn đi qua Mỹ từ ngày chạy loạn 30/4, nên cuộc sống mấy mẹ con rất ung dung khá giả. Mới học lớp 6 thôi, mà hắn đi học mặc quần tây áo sơ mi “đóng thùng” chỉnh tề, mang giày xăng-đan, tay còn đeo chiếc đồng hồ nữa cơ...
Ghi lên đá một thuở áo sờn vai / Vác thập ác quảy tiêu điều âm vọng / Nợ máu xương, nợ người lận đận / Của một thời vàng tím trẻ trai...
Một buổi trưa chan hòa ánh nắng trong vắt như thủy tinh của một ngày nắng ấm cuối đông, chớm bước sang xuân. Cảnh vật như bừng sáng dậy sau những ngày u ám. Tôi và Thi ngồi bên nhau tại một nơi vắng vẻ trong khu vườn sau nhà, dưới tàn cây mít, gần bên chiếc cầu ao soi bóng lung linh trên mặt nước đang gợn sóng lăn tăn...
Tôi có một người anh cá tính hoang nghịch trổ trời mà lên. Từ nhỏ, thích trèo cây trong vườn. Có bữa leo phải cành ổi giòn bị gãy, thế là anh rớt xuống nghe uỵch một cái như trái mít rụng. Anh đau điếng cảm giác rêm ram cả mạnh sườn...
Hồi ở trại tỵ nạn Thailand, tôi có lúc đã quay cuồng “chạy sô” đi học 4 thứ tiếng.
Thơ của hai thi sĩ Thy An & Lê Minh Hiền
Nhận được bài thơ của người bạn Phạm Xuân Tích, tôi thấy bài thơ của ông bạn khá độc đáo và lý thú, tôi mạo muội viết lại sao y bản chính – cả hai bản tiếng Pháp và bản dịch tiếng Việt cũng của ông ấy, để hầu các vị đọc cho vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.