Hôm nay,  

Đi tìm ẩn số trong một bài ca dao

08/08/202210:05:00(Xem: 3389)

Tạp bút

quang nam
Sông núi Quảng Nam.

 

“Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng

Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

Thương cha nhớ mẹ thì về

Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng”.

(Ca Dao Quảng Nam)

 

Rõ ràng ẩn số không hiện diện trong ba câu mở đầu, bởi sự nhắn nhủ đã rõ ràng minh bạch quá rồi. Nhìn lên đỉnh Hòn Kẽm với những vách đá dựng đứng nhấp nhô chạnh nỗi lòng thương cha nhớ mẹ quá chừng là một lẽ tự nhiên rất người. Ai xa quê mà không nhớ, chẳng những nhớ người thân mà còn nhớ đến từng gốc cây ngọn cỏ quê nhà. Người xưa chẳng đã từng “Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại”( Mây bay ngang núi Tần Lĩnh không biết nhà ta nơi nào – Hàn Dũ) được Nguyễn Du vận vào truyện Kiều “Hồn quê theo ngon mây Tần xa xa”đó sao! Dẫu là thi nhân hay một bác thường dân mộc mạc lúc lưu lạc quê người đối diện thiên nhiên hùng vĩ hoặc hoang sơ liêu tịch đều “nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” cả.Vì thế trong câu thơ thứ ba tác giả bài ca hồn nhiên khẳng định một cách chân chất rất Quảng “thương cha nhớ mẹ thì về”. Điều ấy không có gì để mà bàn song đến câu bốn thì xuất hiện ẩn số mà nếu không giải mã thì khó có thể tiếp nhận vào kho tàng ca dao đất Quảng. Sao lại có thể nói “nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng”. Đặt trong mối quan hệ ngữ nghĩa các điệp từ thương, nhớ làm nhiệm vụ liên kết câu bằng phép lặp từ vựng ta không thể nghĩ tránh trớ nào khác về ngữ “thì đừng”. Đừng là đừng về quê kiểng dù có nhớ thương bao nhiêu chăng nữa chứ còn sao nữa? Lâu nay trong một số bài viết về văn học dân gian đất Quảng khi có dịp nhắc đến bài ca dao này nhiều người lờ đi hai câu cuối vì thấy sự nghịch nghịch trai trái đó.Tôi trân trọng cách nói của ông Mai Thúc Lân khi khơi mở cảm nhận về hai câu cuối này: “Câu ca dao này nhắn nhủ những người xa quê một điều gì đó rất thâm thuý tế nhị mà mình không hiểu hết cái thâm thuý tế nhị đó. Vì sao thương cha nhớ mẹ thì về còn nhớ cảnh nhớ quê thì đừng. Vì đi lại tốn kém hay nguy hiểm chăng, hay vì một lẽ gì đó chỉ có người trong cuộc mới hiểu được”. Từ sự khơi gợi ấy tôi xin đưa ra một cách tiếp cận 2 câu cuối bài ca dao này theo kênh cảm nhận mang tính chủ quan của riêng mình mong được các nhà nghiên cứu văn học và tất cả bạn viết trao đổi thêm.

 

Tôi nghĩ đối tượng nhớ quê, chủ thể trữ tình trong bài ca dao này chỉ có thể là người con gái miền xuôi hay miền biển gì đó bị cha mẹ gả chồng trên miền ngược. Cơ sở nào tôi dám xác định như thế? Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu đầu thì không sao định vị đối tượng nhớ quê một cách chính xác. Ai mà không hoài nhớ quê hương cớ gì chỉ là một cô gái, khẳng định đối tượng thế này là khiên cưỡng. Chính vì sự thâm thuý tế nhị đó mà ta mới tìm ra ẩn số bài ca dao nằm trong cặp từ “kiểng, quê”. Tác giả đã hồn nhiên sử dụng thủ pháp mà lý luận mỹ học hiện đại gọi là phép “lạ hoá” theo đó hiện tượng được miêu tả hiện ra không phải như ta quen nhìn nhận nó. “Quê / kiểng” phải được tiếp nhận theo một hàm nghĩa khác. Đó là những mối tình giữa trai và gái diễn ra trong bối cảnh cây đa, bến nước, sân đình của quê kiểng năm xưa ngày cô gái ấy còn son rỗi, còn hẹn hò dấm dúi với tình lang. Bây giờ “em đã có chồng / như chim vào lồng như cá cắn câu” dù có thương nhớ người xưa bao nhiêu chăng nữa thì cũng đừng về. Đặt bài ca dao trong bối cảnh xã hội phong kiến mới thấy lời nhắn nhủ ấy mang tính nhân văn sâu sắc. Người đàn ông sa chân thì còn gượng dậy được, bởi họ có cái trật tự ngàn đời của xã hội phong kiến Nho giáo xúm vào đỡ chứ còn đàn bà nhất là đàn bà đã có chồng (dù là có chồng trong mối hôn nhân ép buộc) thì cái xã hội ấy sẽ nhân danh tiết hạnh vùi dập một cách không thương tiếc. Nhưng nói trắng ra thế nào được, tác giả bài ca dao đành nói tránh ra vậy. Sự thâm thuý tế nhị chính là ở đó. Muốn khám phá chiều sâu ẩn tàng của ngữ nghĩa phải nắm bắt đúng bản chất vấn đề. Có thế mới tránh cho con chữ khỏi bị hàm oan.

 

Nguyễn Đức Mù Sương

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người lái xe bực mình. Ai đời mấy người khách đi nhờ từ lúc lên xe cứ một mực im lặng. Mà anh muốn họ nói. Nói chuyện gì cũng được, miễn có. Miễn anh nghe tiếng họ, không phải cảm thấy chỉ có mình anh trên chiếc xe tải cũ kỹ này. Đường thì dài...
Hồi nhỏ có lần vào dịp lễ Ok Om Bok nội dắt tôi đi Sóc Trăng coi lễ hội truyền thống đua ghe Ngo của người Khmer trên sông Nhu Gia ở xã Thạnh Phú. Lớn lên, anh bạn Thạch Sum quê Cù Lao Dung (Sóc Trăng) đưa tôi tới Chùa Dơi coi đàn dơi khổng lồ đeo tòn ten trên cây sao, cây dầu xong xuống kinh Chà Và lội về bến cá Bãi Xàu uống rượu nếp Bãi Xàu say tít cung thang. Tôi còn nhớ buổi nhậu trong một quán lá đơn sơ, lần đầu tiên tôi nghe câu nói lạ tai: "On ơi on! Sà lanh bon tê?", “Sóc Sờ Bai, bòn, tâu na bòn, tâu na bòn ơi”...
Phan Huấn quê ở làng Cao Mật - gần thành Tây Đô là con của một viên thị vệ dưới triều Trần Thuận Tông. Từ thuở nhỏ Huấn đã nổi tiếng hay chữ. Nhờ thân phụ làm việc gần vua, Huấn biết khá nhiều chuyện lôi thôi đã xảy ra ở triều đình. Lúc bấy giờ nhà Trần đã quá suy yếu, đang bị một ngoại thích nhiều tham vọng là Hồ Quí Ly khuynh loát...
Nhiều lúc nghĩ cũng lạ, cái ý nghĩ về tuổi già cứ đeo đẳng mãi trong trí mình không sao quên nó đi được. Nghĩ cũng tại mình. Tuổi tác là vấn đề thuộc thời gian. Sống lâu lên lão làng. Đó là tự nhiên. Mỗi tuổi đều có những khó khăn riêng, cũng như những bịnh tật...
Mới đọc tin ngày 13 tháng tư, 2023 một thằng nhỏ khi đi tìm đón người em đã bấm chuông cửa lộn nhà, bị ông chủ nhà bắn bị thương. Ông chủ nhà này chắc thuộc loại khó tính và đề cao cảnh giác quá độ đã hành xử nóng nảy vội vàng. May mà thằng nhỏ không chết, kẻo ông sẽ ân hận cả đời...
Trong đám kỹ sư mới Tám Côn là một nhân vật nổi bật, kể về tướng mạo lẫn cá tính. Đi với nhóm cán bộ đầu tiên vào tiếp thu nhà máy, Tám Côn đã thu hút một sự chú ý đặc biệt. Trong khi những người khác đều ra dáng cán bộ với trang phục “thời thượng” là áo trắng ngã màu cháo lòng, quần dài kaki vàng hay nâu, anh Tám đóng nguyên bộ quân phục cũ kỹ bạc màu, trên đầu nón cối mới tinh với huy hiệu ngôi sao vàng chói...
Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1975, tôi mới được một tuổi; đến nay, tôi 49 tuổi, coi như đã sống một nửa thế kỷ. Nhìn lại quãng đời vừa qua, tôi thấy đời tôi thật sung sướng, cho đến năm 48. Nhưng năm nay 49 thì, như nhiều người nói, bốn chín chưa qua năm ba đã tới, tôi gặp tai nạn, do chính tôi gây ra, khiến từ nay tôi không còn muốn chường mặt ra xã hội.
Sáng nay tôi thức dậy và tôi đã lên ba tuổi rồi. Mẹ đánh thức tôi bằng nụ hôn và ôm choàng lấy tôi. Mẹ đã làm bánh kếp(*). Ôi! Ngon quá! Trời rất đẹp và chúng tôi đi dạo bây giờ đây. Ánh nắng mặt trời chói lọi mơn man trên mắt tôi. Đến công viên, tôi gặp bạn bè của tôi. Cuộc đời đẹp làm sao!
Mẹ tôi, con gái quê Sơn Tây, sống cùng thời với thi sĩ Quang Dũng, nổi tiếng với bài thơ “Đôi Mắt Người Sơn Tây”. Mẹ đi lấy chồng, gia tài vỏn vẹn một con lợn nái. Mẹ kể mỗi khi ăn no, nó lại nằm ịch ngay giữa nhà, ụt ịt chờ mẹ xoa bụng. Bà ngoại mua để mẹ nuôi, lớn lên bán được số tiền to làm vốn xem như của hồi môn lúc ra riêng...
Vấn là bạn sách đèn thân thiết với Thạnh từ thuở bé. Cha Thạnh với mẹ Vấn cũng là anh em cô cậu ruột. Do vậy, anh chị em Thạnh dù lớn hay nhỏ đều là vai trên của Vấn. Vấn lại rất hiền lành nên cả nhà Trúc đều thương mến. Suốt tuổi học trò Vấn vẫn hay đến nhà Thạnh, nơi đầy đủ tiện nghi cho hơn ở nhà để cùng Thạnh học hành...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.