Hôm nay,  

Cung Tiến, đời lập từ những đêm hoang sơ

10/06/202209:51:00(Xem: 3132)

Tưởng niệm Nhạc Sĩ Cung Tiến

ct-nductung

Cái chết làm nên đời sống của chúng ta. Cũng như mất mát làm nên âm nhạc. Cái chết của một người, một nghệ sĩ, một quê hương.

 

Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi

Buồn sớm đưa chân cuộc đời

 

Nghe nhạc Cung Tiến, các bài hát, tôi chú ý lắng nghe ca từ của ông. Những chữ của ông.

 

Chiều buồn len lén tâm tư

Mơ hồ nghe lá thu mưa

 

Lời tự nhiên, chân thành, sang cả. Đó là tâm sự của một chàng trai mới lớn, bắt đầu biết yêu, mơ mộng. Hơn thế, đó là thẩm mỹ của một người trẻ tuổi được giáo dục tử tế, chịu ảnh hưởng của văn học tiền chiến và thơ mới. Hoài Cảm là lòng hoài niệm về một thế giới tốt đẹp, tình yêu đã mất, thiên đường tan vỡ.

 

Chờ hoài nhau trong mơ

Nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa

 

Ca từ của Cung Tiến diễm lệ. Về một mặt nào đó, là sự kế thừa các nhạc sĩ đi trước như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, và các nhà thơ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Nghe ông, tôi thường nghĩ đến Đoàn Chuẩn:

 

Giòng đời trôi đã về chiều

Mà lòng mến còn nhiều

Đập gương xưa tìm bóng

 

Đặc điểm của ca từ Cung Tiến là việc dùng chữ hoặc đặt câu rất mới:

 

lòng cuồng điên vì nhớ

còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao

buồn sớm đưa chân cuộc đời

 

Vàng bướm khác với bướm vàng, đó không phải chỉ là sự đảo chữ, còn hơn thế nữa, chữ vàng đi trước làm ra cả một không gian màu sắc được vẽ lên bởi cánh bướm. Nó làm chúng ta nhớ lại cách nói của người nước ngoài, ví dụ trong thơ Đường, Thôi Hiệu:

 

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

 

Trong khi Ngô Tất Tố dịch:

 

Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn

Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay

 

Thì Vũ Hoàng Chương dịch là:

 

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Trắng một màu mây vạn vạn đời

 

Màu trắng, màu vàng át cả không gian, trắng đi trước mây, vàng đi trước hạc. Những câu được Cung Tiến viết cách đây hàng nửa thế kỷ, bây giờ vẫn mới. Trong khi còn là một nhà văn, một dịch giả, có cơ hội tiếp cận với văn học nghệ thuật và âm nhạc phương Tây, ông vẫn giữ một tâm hồn Đông phương tha thiết, thơ mộng lạ thường. Cung Tiến là sự kết hợp giữa truyền thống Đông phương và âm nhạc hiện đại phương Tây, giữa một ngôn ngữ quý phái và tâm hồn chất phác, ngây thơ. Những kết hợp ấy thật quý báu, ngày càng hiếm. Đó là kết quả của một nền giáo dục vào thời ấy, ở Hà Nội, ở miền Nam, thiết lập bởi những giá trị tự do mà nhạc sĩ thường xuyên theo đuổi, lặng lẽ nhưng cương quyết. Tôi nghe bài hát của ông từ năm mười bốn tuổi, lúc ấy tôi chưa hề biết yêu là gì, vậy mà vẫn say đắm chất ngất với dòng nhạc mượt mà:

 

Ôi những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi

Buồn sớm đưa chân cuộc đời

Lời Đường thi nghe vẫn rền trong sương mưa

 

Vào tuổi ấy tôi chỉ mới đọc vài bài Đường thi, chưa biết buồn là gì, nhưng sao tôi vẫn cảm thông với tác giả khi ông mơ hoài một kiếp xa xôi? Hay phải chăng trong mỗi con người chúng ta đều có một kiếp trước truyền lại, một tình yêu bất thành được ký gởi, một quê hương tan vỡ được báo trước?

 

Chị em của thơ thì có nhiều: tùy bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, báo chí, phim ảnh, kịch nghệ, nhưng đối với tôi, người thân nhất, người chị em ruột của thơ, chính là ca khúc. Cung Tiến là một sự kết hợp như vậy: giữa ca từ và âm nhạc, giữa thơ và ca khúc. Thơ ca. Sự liên kết giữa thơ và ca đã có từ lâu đời, ngày một chia xa trong thế giới hiện nay. Thơ ngày một xa rời ca khúc, ngày một gần với văn xuôi, rời bỏ tính âm nhạc của ngôn ngữ. Các nhà thơ hiện nay gần như không làm thơ dưới tác động trực tiếp của âm điệu. Họ viết để truyền tải các ý tưởng nhiều hơn. Khi chúng ta nghe một bài hát, những chữ trong bài hát ấy vang lên không còn là những chữ chúng ta đọc trên giấy nữa, chúng biến đổi trở thành chữ khác, một sự lai ghép giữa âm nhạc và ngôn ngữ. Khi đọc lời:

 

Chờ nhau hoài cố nhân ơi

Sương buồn che kín nguồn đời

 

Tôi vừa nhìn thấy màn sương buông xuống, vừa nghĩ đến bóng người đi trong ấy, càng lúc càng xa. Điều ấy cũng xảy ra khi tôi đọc chúng như câu thơ. Nhưng người nào từng nghe Cung Tiến qua Duy Trác hay Thái Thanh, Lệ Thu hay Anh Ngọc, sẽ không thể đọc thế nữa, như câu thơ thông thường, người ấy phải đọc khác đi. Phải đọc như đang hát. Và khi hát như thế, dù chỉ hát thầm, hai chữ cố nhân ấy sẽ khác đi, hình ảnh người đi trong sương cũng khác. Cũng vậy, bốn chữ “che kín nguồn đời” khi được ngân lên như một ca từ, hình ảnh cũng biến đổi, sâu hơn, dào dạt hơn.

 

Các nhà thơ và nhạc sĩ Việt Nam thời trước nói nhiều về hoài niệm. Hoài niệm của Cung Tiến cũng không khác, chỉ là ông đã đẩy nó đến tận cùng, làm cho nó trở thành nguồn hứng khởi chủ đạo, của tình yêu tha thiết đối với quê hương, hoài bão không cùng của sự trở về, lòng thương tiếc khôn nguôi về một thiên đường đã biến mất. Các nhạc sĩ khi viết ca khúc được một quyền ưu tiên mà các nhà thơ không có: được phép lặp lại nhiều lần một số chữ, được phép cắt bỏ hoặc nối dài nhiều câu. Nhiều nhạc sĩ Việt nam phổ nhạc cho các bài thơ, nhưng thường là thơ có vần, như Phạm Duy phổ thơ Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên. Cung Tiến đã sớm phổ thơ tự do, như của Thanh Tâm Tuyền, một điều khá hiếm như Du Tử Lê từng chỉ ra. Đó là nói về âm nhạc Việt Nam, nhưng trên thế giới, thơ tự do lại là phổ biến trong các ca khúc chịu ảnh hưởng của nhạc rock, opera, jazz. Người ta nói nhiều đến việc thơ được phổ nhạc bởi các nhạc sĩ, ít người để ý rằng ca từ trong các bài hát cũng ảnh hưởng ngược lại đến thơ hôm nay.

 

Mối quan hệ giữa thơ và ca từ rất phức tạp. Thực ra không nên tìm ở trong lời của các bài hát những phát hiện cao siêu, các triết lý, các ý tưởng lớn. Điều đó đã có tiểu thuyết, thơ, trường ca, kịch. Công việc của một nhạc sĩ khác hẳn, người ấy cần một ngôn ngữ sáng sủa, sự kết hợp đẹp giữa thơ và nhạc, đơn giản hóa các sự vật; cất tiếng nói bằng một ngôn ngữ đã thay đổi. Một chữ thông thường trong lời nói khi được gieo vào ca khúc, được hát lên, ngân nga với độ dài ngắn khác nhau, cao thấp khác nhau, giữa âm thanh của các khí cụ khác nhau, tự chúng đã tạo ra những chất liệu, những ý nghĩa mới. Thế mà, ở những nhạc sĩ tài năng, như Cung Tiến, Ngô Thụy Miên, Đoàn Chuẩn, Trịnh Công Sơn, lời do chính họ viết, hoặc những bài thơ được họ phổ nhạc và làm biến đổi đi dưới áp lực của âm nhạc, còn mang lại cho người nghe những điều khác hơn thế nữa, những ý tưởng.

 

Đời lập từ những đêm hoang sơ

Thanh bình như bóng trưa đơn sơ

Nay đời tan biến trong hư vô

Chết đầy từng mồ oán thù

Máu sương tơi bời nhiều mùa thu

 

Không những chỉ là những ca từ đẹp mà còn là cách nói mới, không những chỉ là cách nói mới mà còn là dòng suối của tình yêu, của tư tưởng, chảy mát, lúc nào cũng mới, từ nguồn tình tự dân tộc, thương xót, vỗ về, mơ ước.

 

Nguyễn Đức Tùng

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.
Tôi để ý đến hắn, không phải vì cái tên với cái họ “lạ”, họ Mai. Cũng chẳng phải vì hắn là công tử con nhà giàu. Nghe nói ba hắn đi qua Mỹ từ ngày chạy loạn 30/4, nên cuộc sống mấy mẹ con rất ung dung khá giả. Mới học lớp 6 thôi, mà hắn đi học mặc quần tây áo sơ mi “đóng thùng” chỉnh tề, mang giày xăng-đan, tay còn đeo chiếc đồng hồ nữa cơ...
Ghi lên đá một thuở áo sờn vai / Vác thập ác quảy tiêu điều âm vọng / Nợ máu xương, nợ người lận đận / Của một thời vàng tím trẻ trai...
Một buổi trưa chan hòa ánh nắng trong vắt như thủy tinh của một ngày nắng ấm cuối đông, chớm bước sang xuân. Cảnh vật như bừng sáng dậy sau những ngày u ám. Tôi và Thi ngồi bên nhau tại một nơi vắng vẻ trong khu vườn sau nhà, dưới tàn cây mít, gần bên chiếc cầu ao soi bóng lung linh trên mặt nước đang gợn sóng lăn tăn...
Tôi có một người anh cá tính hoang nghịch trổ trời mà lên. Từ nhỏ, thích trèo cây trong vườn. Có bữa leo phải cành ổi giòn bị gãy, thế là anh rớt xuống nghe uỵch một cái như trái mít rụng. Anh đau điếng cảm giác rêm ram cả mạnh sườn...
Hồi ở trại tỵ nạn Thailand, tôi có lúc đã quay cuồng “chạy sô” đi học 4 thứ tiếng.
Thơ của hai thi sĩ Thy An & Lê Minh Hiền
Nhận được bài thơ của người bạn Phạm Xuân Tích, tôi thấy bài thơ của ông bạn khá độc đáo và lý thú, tôi mạo muội viết lại sao y bản chính – cả hai bản tiếng Pháp và bản dịch tiếng Việt cũng của ông ấy, để hầu các vị đọc cho vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.