Hôm nay,  

Banmethuột -- Khúc Phim Buồn

09/03/202219:13:00(Xem: 1525)

Ban_Don


 

(Viết dể nhớ Banmethuột, ngày 10 tháng 3, 1975)

 

Hằng năm cứ mỗi lần đến ngày 10 tháng 3, Hải không giấu được nỗi cảm xúc của mình, có những khi cảm xúc kéo dài đến hàng tuần, và những lần như vậy, anh cơ hồ đi lại những khu phố thân quen của Banmethuột một thời thơ mộng và đáng yêu. 

 

Thoảng chốc mà đã mấy mươi năm, tóc anh đã điểm bạc, bạn bè trang lứa biết bao nhiêu kẻ đã ra đi, nhưng trong lòng anh, khi nhớ về quê hương cũ, vẫn nghe lòng sục sôi thời tuổi trẻ, trong huyết quản anh, dòng máu luân lưu cuồn cuộn như thủa trai tráng một thời, và bao mến yêu nơi quê hương ấu thơ đó hiện ra mồn một trong tâm trí anh.

 

– Này, ông đã nghe tin gì chưa vậy?

– Thì tụi nó đang di chuyển về Banmethuot cấp Sư đoàn và là tụi chính quy, có phải ông muốn nói về tin này không?

 

– Ừ phải rồi, bên Cảnh sát cũng đã được Chủ nhân của 7 chiếc xe cần câu tới khai báo là xe của họ đi làm rừng đã bị tụi nó tịch thu ở khu vực Đức Lập vùng Tây Bắc, và khu Băng Đon cũng bị 3 chiếc.

 

– Không Trợ đã chụp được không ảnh hoạt động của tụi nó, đã gởi công điện cho Quân Đoàn và các đơn vị liên hệ rồi.

 

– Cũng mong là không có gì.

 

– Dĩ nhiên là không có gì, vì nơi đây là quê hương của tôi mà!  Hải vừa nói vừa cười.

 

Đó là khoảng thời gian cuối tháng 2 năm 1975, anh và Chi nói chuyện với nhau 3 tuần trước ngày 9 tháng 3 năm 1975, ngày Việt Cộng tràn ngập Chi Khu Đức Lập thuộc Tỉnh Quảng Đức, và đêm hôm ấy, lúc 2 giờ 20 sáng ngày thứ 2, 10/3/1975, cộng quân pháo kích thị xã Banmethuot, mở đầu cho trận tấn công vào thị xã này.

 

Sáng ngày 10 tháng 3, lúc 6 giờ 30 sáng, tại Ngã Sáu, trước nhà thờ Chính Tòa Banmethuot, khi xe của Ty Thông Tin còn loan đi lời kêu gọi đồng bào “ai ở yên nhà nấy, tình hình thị xã vẫn còn yên tĩnh”, thì bộ binh của cộng quân đã tràn chiếm góc Tây Bắc của Phi Trường L19 và xâm nhập khu vườn cà phê cuối đường  Phan Chu Trinh, đồng thời các chốt điểm trọng yếu của Cảnh Sát ở mặt Nam thị xã đã phải xin lệnh rút để tránh bị tiêu diệt.

 

Tình hình thị xã từ đường Võ Tánh, Phan Chu Trinh, chay. xuống Nguyễn Tri Phương kéo dài cho đến Suối Đốc Học và Khu Buôn A Lê A, A Lê B vẫn còn trong sự kiểm soát, nhưng rải rác một vài nơi như khu vực Trần Hưng Đạo, (Ty Ngân Khố đi vào) và khu Kim Mai đã có những gia đình bồng bế con, gồng gánh chạy vào trung tâm thị xã, đến nương náu trên đường Lý Thường Kiệt, khoảng giữa  Ama Trang Long, và Quang Trung, chen chúc nhau trong tiệm bi da Thanh Sơn.

7 giờ 30, sáng ngày Thứ Hai, 10 tháng 3, 1975, bộ binh của cộng quân đã từ khu vườn cà phê sau lưng Tòa Giám Mục, theo đường Phan Chu Trinh xậm nhập thị xã và chiếm khuôn viên Nhà thờ Chính Tòa, ở Ngã Sáu. Rồi tất cả như một khúc phim lần lượt hiện ra trông trí Hải. Khu nhà anh ở bị trúng đạn bốc cháy, nhà hàng Hoàng Vinh, khói lửa cuộn vòng dâng cao, thành phố náo loạn trong chốc lát, từng nhóm người tụ tập từng góc phố, từ  đường Y Yút, Khu Trường Tàu, Chùa Khải Đoan, cho tới  Khu Hoàng Diệu - Lê Văn Duyệt, Phạm Phú Quốc - Hàm Nghi…

 

Một số dân cư từ Buôn A Lê A, khu Suối Đốc Học lại gồng gánh, bồng bế nhau đổ về Trung tâm thị xã và ẩn náu trong khu chợ, sau nhà hàng Vĩnh Thuận. Cho đến lúc này, người dân thị xã vẫn chưa tin Banmethuột sẽ mất, vì hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh còn đó, Tiểu Khu còn đó, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát còn đó, và nhất là tin truyền miệng cho biết Biệt Động Quân đã vào Trường Trung Học Tổng Hợp, đang di chuyển về Ngã Sáu thị xã, và Khu Tư Dinh Tư Lệnh Sư Đoàn 23 BB.

 

Nhưng rồi người dân thị xã đã tuyệt vọng khi hay tin đơn vị Biệt Động Quân xâm nhập thị xã chỉ để đưa gia đình tướng Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà thôi.

 

– 11giờ 20, sáng ngày 10 tháng 3, 1975, 1 chiếc T54 của cộng quân  bị bắn hạ trước cổng Tiểu Khu, đường Thống Nhất.

 

– 1 giờ chiều ngày 10 tháng 3, 1975, Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị pháo sập, mọi liên lạc bi gián đoạn.

 

– 2 giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, Tiểu Khu di tản ra Trung tâm huấn luyên của Trung Đoàn 45 BB, cây số 5.

 

– 3 giờ 40 chiều cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia di tản khỏi thí xã, và Banmêthuột lọt vào tay quân cộng sản.

 

Tất cả những sự kiện ấy, và hình ảnh tan hoang của phố thị hay Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, Tòa Hành Chánh, các khu công sở…  mãi mãi như vết tích hằn sâu trong tâm trí Hải.

 

Những cuộc trả thù cá nhân, những người làm chỉ điểm viên cho cộng quân lục soát tư gia của Sĩ quan, viên chức chính phủ, những hành động trả tư thù man rợ đến nay đã mấy mưoi năm nhưng vẫn như mới xảy ra đâu đây, ở hôm qua hay tuần trước trong trí óc anh! 

 

Bao nhiêu sách vở, giấy tờ, văn khế, văn bằng, đều đem đốt hết hay bị đốt sạch, nhất là các sách ngoại ngữ, Anh Văn, Pháp Văn, Tự điển Anh Pháp hay Hán tự đều đốt hết. Duy chỉ một thứ không đốt đó là gạo, cộng quân sau khi chiếm thị xã, đã phá kho dự trữ lương thực Trung ương, trực thuộc Phủ thủ tướng lấy hết gạo chất lên các xe Mô-lô-tô-va chở về hướng Băng Don, các dụng cụ y khoa, dược phẩm của các Bảo sanh viện, bệnh viện, và các tiệm thuốc Tây, đều bị cộng quân hốt hết chở vô rừng.

 

Nỗi kinh hoàng và tình trạng khủng bố qua những việc lục soát, truy bắt, và thanh lọc xảy ra trên các khu phố, hay Chùa Khải Đoan, Trường Tàu ở đường Y Yút, đường Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi, Võ Tánh, Hàm Nghi...   mãi mãi là hình ảnh khủng khiếp, và hoang mang hằn sâu trong tâm trí những người dân thị xã, nhất là các gia đình sĩ quan cùng viên chức chính phủ, binh lính, cảnh sát hay Nghĩa quân và Nhân Dân Tự Vệ.

 

10 giờ 30 sáng ngày 11/3/1975, hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị cộng quân tràn ngập, và thị xã Banmethuot hoàn toàn lọt vào tay cộng quân. Từ đó, cảnh thê lương hoang tàn càng bi thảm hơn, nhưng trong lòng người dân vẫn còn nuôi hy vọng Banmêthuột nhất đinh sẽ được giải cứu, vì 4 Quận và 4 Chi Khu trực thuộc vẫn còn nguyên ven. Các vị Quận trưởng kiêm Chi Khu trưởng đều là những sĩ quan cấp tá dày dạn chiến trường, thêm vào đó, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, Trung Đoàn 44BB, 45 BB chưa hề chạm trán với địch quân. 

 

Người dân thị xã lúc này lại cố gắng thoát khỏi thị xã để tránh bom đạn khi có lực lượng Tổng trừ bị đến giải tỏa. Hy vọng vẫn còn đây! Cho đến một ngày, ngày định mệnh của Banmêthuột và cũng là ngày mà những người lính anh dũng, thiện chiến của các đơn vị Biệt Động Quân, Sư đoàn 23 BB cũng như các đơn vị trực thuộc Quân đoàn II bị bức tử, đó là ngày người ta nhận được tin Quân đoàn II di tản, và ngày 17 tháng 3 năm 1975, Phòng tuyến Phước An bị chọc thủng, tất cả đã tiêu tan.

 

Hải bắt đầu cuộc chạy trốn sự truy lùng của cộng quân và các tên chỉ điểm, đám công an 30, len lỏi từng khu ngoại ô, Trần Hưng Đạo, Suối Đốc Học, đến Suối Bà Hoàng, lần ra hướng Nhà Thờ Phú Long rồi đi về hướng Quốc lộ 21, mà lòng thầm tiếc nuối bỏ lại tình yêu và kỷ niệm một thời thơ ấu, một khoảng đời oanh liệt nơi vùng đất chôn nhau cắt rún, đã nuôi dưỡng anh từ thủa ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành.

 

Từ đây, Hải thất lạc với Chi và bao nhiêu đồng đội cùng đơn vị. 

 

Và cuối cùng anh bị bắt ở khu rẫy Buôn Kô Tam, bị dẫn bộ qua đường rừng đến Thanh An, một Quận thuộc tỉnh Plei Ku. Đoạn đường rừng mà sau nay mỗi khi nhớ lại, hay lúc kể chuyện tù cải tạo cho bạn bè nghe, anh gọi đó là đoạn đường "thương khó" vì mỗi lần bước chân đi là in nguyên dấu chân máu trên đường, da bàn chân bị lột hết, cộng quân đã bắt cởi giày đeo lên cổ, đi chân đất trên suốt quãng đường dài từ Buôn Kô Tam, Banmethuột đến Thanh An, Pleiku. Ở Thanh An một năm đi hái trà làm cỏ chung với công nhân và dân địa phương,  tù nhân  luôn luôn được cán bộ vỗ về "Đảng và nhà nước không cho các anh về, chỉ vì sợ nhân dân quá thù hận các anh, sợ họ giết các anh để trả thù". Trong khi đó, hằng ngày đi làm chung với dân, anh và các bạn tù luôn tìm thấy cá khô nướng và khoai lang nấu sẵn giấu dưới các cội trà phủ lá "Các bác ở nhà cũng không no đâu, nhưng chia sớt cho các con mà thôi, các con đánh giặc dở quá để bây giờ các bác và các con cùng chịu khổ!”

 

Câu nói làm rơi nước mắt những người tù, nên có những lần quá cảm động, anh và các bạn tù đã không nỡ lấy cá, chỉ lấy khoai mà thôi. Và đó chính là lòng thù hận của nhân dân Miền Nam dành cho ngụy quân, ngụy quyền mà cán bộ trại tù quen nói.

 

Khoảng tháng 9 năm 1976, anh được đưa về trại tù Mê Van, một mật khu của cộng quân nằm về phía Bắc, Tây Bắc Thị xã Banmethuột, cách thị xã khoảng 60 km đường chim bay. Tại đây, anh gặp lại những khuôn mặt thân quen ngày cũ như Đại Úy Nghĩa (Phụng Hoàng), Đại Úy Long (An ninh Quân Đội ), Sơn, Tế (Quân Báo). Một số viên chức Hành Chánh như anh Tăng (Ty Xã Hội), Anh Khôi, Anh Tín, và Chi, người bạn nối khố của anh, Quốc Anh, người bạn học thời Đệ Nhất. 

 

Sáu tháng sau, anh được lệnh chuyển trại cùng với 12 phạm nhân khác (phạm nhân là cách xưng của nhà tù Mê Van). Ngày chuyển trai thật cảm động, đó là giờ cơm trưa, cán bộ võ trang đến từng trại đọc tên những phạm nhân chuyển trại và ra lệnh "Ai có tên trong danh sách này, phải thanh toán nợ nần với bạn bè, ai mắc nợ những phạm nhân được lệnh chuyển trại này cũng phải thanh toán cho họ, sau khi ăn cơm xong, 1 giờ trưa, các anh tập họp trước văn phòng trại". Rồi bạn bè trong trại, người gói cho mấy miếng đường thẻ, nắm thuốc lào, chén gạo nếp… là những thực phẩm rất quí của đời tù. Anh còn nhớ Trị đến thì thầm bên tai anh "Hãy nhớ giữ gìn sức khỏe và can đảm, tất cả đều là thánh ý mà thôi", rồi đút túi cho anh 4 viên đường thẻ, trước khi anh kịp mang ba lô bước ra khỏi trại.

 

Bẵng đi một thời gian rất lâu, anh mất hết tin tức các bạn bè cũ, cho đến ngày được tha, về Sàigòn những người đầu tiên mà anh găp lại đó là Nguyễn Bá Trí (Đốc sự Hành Chánh), Hồ Sĩ Thái (Nông cơ BanmêThuột) tại nhà thờ Chúa Cứu Thế trong buổi chầu chiều thứ 7, sau giờ chầu, 3 anh em rủ nhau đạp xe theo Nguyễn Thông nối dài để đến Lê Văn Duyệt ở Cống Bà Xếp. Từ đây đạp đến chợ Bến Thành, qua Câu Lạc Bộ Học sinh Sinh Viên Nghệ Tĩnh Bình, 370 Lê Văn Duyệt, nơi mà 3 anh em một thời đã làm sinh viên nội trú suốt 4 năm, bây giờ căn nhà xây mặt tiền đã làm Tòa soạn báo Công Giáo Dân Tộc của Linh mục Trương Bá Cần. 

 

Ở đây còn chôn đầy kỷ niệm của đời làm "précepteur" và thầy giáo dạy giờ ở các tư thục. Đời sinh viên quả thật là thơ mộng, Tuy nghèo, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh thản nhẹ nhàng, đầy phóng khoáng, có những lúc anh em gặp nhau, bàn tán về người đẹp, nhưng giai nhân không phải là học trò của mình mà là hai chị em cô chủ quán "Thạch Chè" nổi tiếng, nằm cùng dãy với Câu Lạc Bộ, cách một con hẻm và 4 căn phố.

 

Nói tới con hẻm này, lại nhớ tới xe đậu đỏ bánh lọt thêm dầu chuối ngon nổi tiếng nhất nhì của Thành Đô một thủa, ai ăn rồi đều muốn được ăn lại. Sài Gòn bây giờ mang nỗi buồn thảm đạm, như xác người còn đó mà hồn phách đã tản lạc nơi đâu, những căn lầu hai bên đường đều phơi đầy quần áo đủ loại đủ màu trên ban công, phố xá buồn thiu, mang nét hoang tàn, xác xơ như những phiên chợ chiều 30 Tết ở phố Quận ngày xưa. Chợ Bến Thành sầm uất và phồn thịnh thủa nào, nay xơ xác còn thua một chợ nhỏ ở các tỉnh lỵ miền núi ngày trước. Quanh chợ toàn là những mặt hàng của Khu Dân Sinh, quần áo cũ, vải miếng, dép da, bata… Đúng là thảm trạng. 

Con đường Huỳnh Thúc Kháng đã thành khu Chợ Trời nổi tiếng, danh vang đến tận miền Tây, bán đủ các mặt hàng, từ áo lót đến áo dài, nhưng toàn là đồ cũ, dân Saigòn hết tiền đem áo quần ra bán, rồi bàn ghế, đồ gia dụng, cho đến đồng hồ, dây chuyền… nghĩa là từ thượng vàng đến hạ cám đều có đủ, chỉ ngặt một nỗi là đồ đã được dân Saigon  xài rồi đem bán lại, mà khách mua dĩ nhiên gia đình cán bộ hoặc cán bộ!

 

Một Chợ Trời nổi tiếng khác là khu chợ Nguyễn Thông, chuyên bán thuốc Tây, bia và rượu ngoại. Chợ Trời có khắp nơi trên đất Saigon, Tân Bình, Chợ Thiếc, Tân Định, Thị Nghè, Bà Chiểu… Ở đâu cũng là quần áo cũ và hàng tiêu dùng.

 

Có những ngày nhàn nhạ, Hải lang thang đến các khu chợ ĐaKao, Bà Chiểu nhìn người mua kẻ bán, để nghe những câu hỏi của khách mua: “Khoai mì này có nở không chị!” “Bo bo này có bị sượng không chị!”

 

Có nhiều ngày, chợ không có khoai mì, không có bo bo, người ta ăn cháo rau muống! Và xếp hàng chờ mua khoai mì sượng của Hợp Tác Xã bán ra, hay bo bo mốc của Cửa Hàng Nhà Nước.

Sàigòn hoa lệ, Hòn Ngọc Viễn Đông, bây giờ là một bãi rác, và bỗng nhiên mùi chợ cá ở đường Trần Quốc Toản ngày nào đã không còn nghe lại nữa!

 

Ngôn ngữ ngoài chợ ở Saigòn bây giờ là "đổng hai cửa sổ, không người lái”, “cái nồi ngồi trên cái cốc”, “Thuốc lá có cán”, “đồ  rởm, báo cáo, đảm bảo…”  nghe rất lạ tai và đôi khi không hiểu đến ngớ ngẩn! Số phận những người đi tù cải tạo về lại thê thảm hơn, chế độ quản lý người tù cải tạo trở về, hết sức tùy tiện, tùy từng phường, từng quận. Có những phường, người tù cải tạo được tha về, được công an phường phát cho một cuốn tập có đóng dấu trên đầu mỗi trang, yêu cầu tù cải tạo phải viết vào đó công việc hằng ngày của mình, đi đâu, làm gì ở đâu, rồi mỗi sáng thứ Hai hằng tuần đem đến trình cho công an phường, và dầu được tha về ở tại nhà mình với vợ con, vợ vẫn phải làm đơn bảo lãnh cho chồng xin tạm trú tại nhà của chính mình, và câu cuối cùng của tờ bảo lãnh tạm trú luôn luôn là "Tuyệt đối chấp hành lệnh của chính quyền địa phương và sẵn sàng đi Kinh Tế Mới khi được chính quyền địa phương bố trí".

 

Những tù cải tạo không thể nào xin được việc làm, vì công an không bao giờ chứng nhận bản sơ yếu lý lịch cho tù, vì họ không có thường trú, nghĩa là không có tên trong tờ Hộ Khẩu của gia đình, ngoại trừ những người tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học, tức là có cử nhân, nhưng cử nhân Văn Khoa, Luật Khoa, nghĩa là các khoa thuộc khoa học Xã hội, lại không được hưởng theo chỉ thị 8 của Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy ký ban hành lúc bấy giờ.

 

Tháng 8, 1992, Hải theo diện HO qua Mỹ, cuốn phim xưa gác lại trong Hải, nhưng vẫn còn tiếp nối cho những người bất hạnh còn lại trên Việt Nam. Nhìn lại chặng đường lịch sử và những chiến tích lẫy lừng của Quân Lực VNCH, từ Vũng Rô, Chiến khu D... của thời nền Cộng Hòa mới phôi thai,  cho đến Mậu Thân, Dak Tô, Ben Hét, Mùa hè đỏ lửa... rồi Hiệp định Paris 27 tháng Giêng năm 1973, những tài liệu viết về chiến tranh Việt Nam, dân miền Nam càng hiểu rõ lich sử Việt Nam hơn.

 

VNCH nhận được viện trợ của Hoa Kỳ cho đến Hiệp định Paris 27/1/1973 thì viện trợ của Hoa Kỳ đã bắt đầu chấm dứt.

 

– 300 triệu viện trợ cho quốc phòng đã bị Quốc Hội Mỹ từ chối

– Nhiên liệu cắt 50%

– Vũ khí, đạn dược hạn chế tối đa, một khẩu M15, M16 chỉ còn 8 băng đạn, bom đã bị rút hết ngòi nổ. Vào thời điểm đó khi các đơn vị ở chiến trường gặp khó khăn gọi về hậu cứ xin yểm trợ, luôn luôn nhận được công điện trả lời là "HÃY TẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN CƠ  HỮU"  Nghĩa là: Hậu cứ không có gì để yểm trợ! Hãy sử dụng những gì anh có!

 

Đêm ngày 9/3/1975, quân cộng sản tấn chiếm chi khu Đức Lập thuộc tỉnh Quảng Đức, cách thị xã Banmethuột, tỉnh Darlắc 60 km về phía Nam, không quân yểm trợ chỉ có 2 phi vụ là bom, 2 phi vụ còn lại là dùng xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lít để thay cho bom.

 

Với tình trạng ấy, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có dũng cảm và thiện chiến đến đâu cũng chỉ chống chọi được từ 6 tháng đến một năm là cạn sạch khí cụ đạn dược. Trong khi đó, quân cộng sản miền Bắc vẫn nhận viện trợ liên tục của cả khối cộng sản Bắc Âu, từ Hungari, Bungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức cho đến Liên Xô và Trung Cộng. Vì thế nên khi cộng sản chiếm được miền Nam, Tổng bí thư đảng cộng sản đã nói, “CHÚNG TA ĐÁNH MIỀN NAM LÀ ĐÁNH CHO LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC”.

 

Không hiểu hôm nay có đảng viên cộng sản nào còn nhớ được câu nói này không?

 

Quân lực VNCH đã rất giỏi, đơn thân độc mã chống với cả thế giới cộng sản mấy năm trời! Và cũng đến hôm nay, chúng ta hiểu rõ chính sách của Hoa Kỳ, một chính sách mang tính giai đoạn, ngắn hạn, tùy thuộc hoàn toàn vào từng đời Tổng thống và đảng cầm quyền, cũng như chiến thuật SEARCH AND DESTROY của William C. Westmoreland, hay CLEAR AND HOLD của Creighton W. Abrams, những tư lệnh của đồng minh Hoa Kỳ thời đó.

 

Chỉ thương đất nước mình là một nước nhỏ, chỉ mong những người cầm quyền hôm nay ý thức được chủ nghĩa cộng sản là một ảo vọng và Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là một khẩu hiệu của chính trị, như dân miền Bắc dạy người miên Nam XHCN = Xạo Hết Chổ  Nói! để thoát khỏi ách của Trung cộng, và ảnh huởng của nước lớn.

 

Vả chăng, giữa kẻ cầm quyền và người bị trị, vĩnh viễn có một khoảng cách, dù là thánh nhân đi nữa thì cá nhân cầm quyền hay đảng cầm quyền vẫn không thể thoát khỏi ma lực quyến rũ của quyền lực.

 

Gần 50 năm trôi qua, nhưng nỗi đau quay quắt chưa hề nguôi, niềm hy vọng đã trở thành mơ ước như bao chuyện thần thoại trong đời, và bao nhiêu đồng đội một thời đã rủ nhau lần lượt ra đi trong ngậm ngùi tức tưởi, mang hờn oan đến chốn tuyền đài.

 

Hải cúi xuống, giấu đi dòng lệ, cố xua đuổi những hình ảnh tang thương ngày ấy và lẩn trốn khúc phim xưa đang cuộn cuộn đi về trong trí óc anh.

 

– Nguyễn Định

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuy Hòa, nơi tôi ở cách nay gần bẩy chục năm, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp...
Chắc bạn đọc nghĩ là tôi đang ở Hà Nội, hay Sài Gòn. Không. Chúng tôi đang du lịch châu Âu. Chuyến nghỉ hè năm nay, cùng với đôi bạn từ Quận Cam, tưởng đã không thành vì Delta Airlines huỷ chuyến bay vào giờ chót, sau khi đã có thẻ lên tầu. Lên mạng tìm vé khác và bên Turkish Airlines còn chỗ để đưa chúng tôi đến Barcelona, Tây Ban Nha là thành phố đầu tiên của chuyến du lịch...
Buổi sáng bến xe Tây Ninh đông đúc và ồn ào. Tiếng rao hàng của đám bán hàng rong vang lên inh ỏi, từ bán bánh mì, bán nước trà đá, nước ngọt bỏ bao, đến bọn người bán sách báo dạo, cứ gặp ai cũng chìa hàng đến trước mặt, giọng mời gọi...
Cái cối xay bột nước lắp ráp xong chị Bông đã xay thử đậu nành rồi xay gạo thấy cả hai đều thành bột mềm nhuyễn đúng ý. Coi như chị đã “khai trương” cái cối xay bột nước của mình mặc dù khi lắp cối xong ông thợ cối đã xay thử bột nọ bột kia rồi. Hôm ấy cả nhà chị được ăn món bánh xèo chiên giòn và uống sữa đậu nành nấu với lá dứa vừa thơm vừa béo thật ngon...
Hai chị em Quỳnh Trâm và Bội Trâm hôm nay được mẹ dạy làm món bánh trái cây bằng bột đậu xanh để đón anh gia sư của hai nàng. Những chiếc bánh xinh xinh đủ màu sắc của trái khế vàng, trái ớt đỏ, trái mảng cầu… được bày sẵn trên khay thật hấp dẫn...
Thơ của hai thi sĩ Huỳnh Liễu Ngạn & Thy An...
Chiếc xe khách Sài Gòn ra Huế tạm dừng ở thành phố Nha Trang vào khoảng bốn giờ chiều. Xe chưa đậu hẳn thì đã có bao nhiêu kẻ bán hàng vặt ồ ạt phóng tới miệng rao hàng inh ỏi tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn. Một số ăn xin tật nguyền, què cụt cũng cố chen lấn tranh nhau hành nghề...
Tôi quen biết Loan thật tình cờ, người đời thường gọi là “duyên”, với tôi, là một định mệnh từ muôn kiếp trước, đã gắn liền hai cuộc đời chúng tôi thành hai chị em, thương yêu và gần gũi, giúp đỡ, an ủi nhau còn hơn chị em ruột thịt...
Bản thân tôi ít khi nào dám ngó về biển cả, dù thấy biển cả rất mênh mông, thoáng mát và êm ả qua nhiều hình ảnh. Cũng có lúc tôi trực diện biển khơi, nhưng chỉ là lúc biển êm sóng dịu rì rào ru hát « Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào… » hoặc là lúc mơ mộng, biển nhớ…
Thời gian sau 1975, tôi cỡ 9-10 tuổi, ngoài ông anh lớn đi dạy ở Cần Thơ, tôi có ba người anh đang học Đại Học, hằng tuần có bạn bè kéo về nhà tôi tụ tập ăn uống, đờn địch ca hát rất vui. Tôi nhỏ tuổi không được tham gia, nhưng có núp ở sau bếp... nghe lỏm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.