Hỏi (Ông Nguyễn T.H.): Tôi cho một người, trước đây là bạn thân của tôi, mượn một số tiền tổng cộng là $120,000 để hùn vốn làm ăn chung. Số tiền này được cho mượn qua nhiều đợt, khởi đầu từ năm 1999. Nhưng vì công việc thương mãi gặp nhiều điều không toại ý nên chúng tôi đã sang nhượng lại cơ sở này vào đầu năm 2004.
Trước đây mỗi lần cho anh ta mượn tiền, chúng tôi đều có làm văn kiện cho mượn nợ đúng theo những gì luật pháp đòi hỏi, nhưng những món nợ mà tôi cho mượn, vì tin tưởng vào bạn bè, nên hoàn toàn không có lưu giữ đồ cầm thế hoặc bảo đảm gì cả.
Nay tôi cần tiền và yêu cầu ông ta trả lại cho tôi số tiền đã mượn trước đây thì ông ta cho biết rằng ông đã hoàn toàn trắng tay, vì đã chuyển giao toàn bộ tài sản cho vợ của ông qua án lệnh đồng thuận được chuẩn nhận bởi Tòa Án Gia Đình.
Toàn bộ tài sản, gồm một căn nhà và một căn appartment, trị giá hơn $900,000 đã được ông ta đã chuyển tên cho vợ của ông ta.
Xin LS cho biết là tôi có quyền xin tòa án gia đình hủy bỏ án lệnh đồng thuận đó không"
Trả lời: Điều 90K(1)(b) của “Đạo Luật Gia Đình 1975” (the Family Law Act 1975) quy định rằng: “Tòa có thẩm quyền đưa ra án lệnh để bác bỏ sự thỏa thuận về tài chánh hoặc sự thỏa thuận để kết thúc quan hệ nếu, và chỉ nếu, tòa thỏa mãn được rằng: sự thỏa thuận đó không có hiệu lực pháp lý, có thể bị tuyên bố vô hiệu, hoặc không thể thi hành được.” (A court may make an order setting aside a financial agreement or a termination agreement if, and only if, the court is satisfied that: the agreement is void, voidable, or unenforceable).
Trong vụ ASIC kiện Rich [2003] FamCA 1114. Trong vụ đó, người chồng sinh năm 1960 và người vợ sinh năm 1962, họ kết hôn với nhau vào năm 1987 và hiện vẫn sống chung với nhau, có 3 con.
Người chồng là giám đốc thành lập công ty One.Tel vào năm 1995. Ông nắm giữ chức vụ giám đốc điều hành, và từ chức vào năm 2001.
One.Tel là một “holding company” (công ty mẹ) nắm quyền kiểm soát một nhóm các công ty khác làm thương nghiệp về truyền thông tại Úc và tại nhiều quốc gia khác.
[Ghi chú: holding company (công ty mẹ, công ty nắm quyền kiểm soát): Công ty nắm quyền kiểm soát đối với một hoặc nhiều “công ty con” [công ty phụ thuộc] khác, do sự làm chủ về cổ phiếu, hoặc do sự kiểm soát đa số phiếu tại bất cứ cuộc họp nào. (A company holding a control over one or more other subsidiaries, either through the ownership of shares, or through control of the majority votes at any meeting)].
Trong thời gian giữa tháng 5 và tháng 6 năm 2001, người chồng đã chuyển hầu hết các tài sản do ông ta làm chủ sang cho vợ của ông.
Vào 29 tháng 5 năm 2001, Ban Giám Đốc của công ty đã đưa ra quyết định là đặt công ty dưới sự quản trị vì đang nằm trong tình trạng vỡ nợ.
Vào ngày 31/5/2001, ASIC (Australian Securities and Investment Commission) (Ủy Ban Chứng Khoán và Đầu Tư Úc Đại Lợi) đã khởi sự việc điều tra người chồng vì nghi ngờ có sự vi phạm luật lệ của công ty.
Điều quan trọng là vào ngày 31/5/2001 người chồng và vợ của ông ta đã ký kết sự thỏa thuận về tài chánh dựa vào điều 90C của Đạo Luật Gia Đình.
Theo các điều khoản của bản thỏa thuận này thì người chồng đồng ý chuyển hầu hết tài sản của ông sang cho vợ của ông ta. Trước khi ký kết bản thỏa thuận này thì vợ của ông ta có $13,067,000 và ông ta có $9,455,000. Với sự thỏa thuận tài chánh, người chồng chỉ nhận 17% toàn bộ tài sản. Cuối cùng vào ngày 24/7/2001 công ty đã tuyên bố vỡ nợ.
Theo bằng chứng được trưng dẫn thì người chồng, trong thời gian nắm giữ chức vụ giám đốc điều hành, đã vi phạm một số điều khoản thuộc Đạo Luật Công Ty và đã gây ra sự thiệt hại cho công ty một khoản tiền từ $62 triệu đến $93 triệu. ASIC bèn nộp đơn xin tòa hủy bỏ bản thỏa thuận tài chánh.
Vấn đề được đặt ra ở đây là liệu tòa án gia đình có thẩm quyền tư pháp để giải quyết quyền lợi của các đệ tam nhân khi đưa ra phán quyết liên hệ đến sự thỏa thuận tài chánh này hay không"
Theo luật, có rất nhiều phán quyết thiết định rằng nhiệm vụ của các bên đương sự cũng như tòa án phải thông báo cho những cá nhân hoặc công ty mà những cá nhân hoặc công ty này có thể bị ảnh hưởng bởi án lệnh.
Những cá nhân hoặc công ty này gồm các chủ nợ hoặc những người nộp đơn khiếu nại và những người này có quyền can dự hoặc được thụ lý về sự khiếu nại như đã được quy định bởi Đạo Luật Gia Đình.
Điều này có nghĩa là nếu có những món nợ còn thiếu đối với đệ tam nhân, thì các món nợ này phải được chi trả bằng cách xử dụng tại sản chung của hai vợ chồng trước khi tòa đưa ra án lệnh chia tài sản.
Nếu chủ nợ hoặc sự đòi nợ có thể bị ảnh hưởng bởi án lệnh thì các chủ nợ phải được thông báo và được quyền thụ lý, hoặc nếu có những vấn đề khiếu nại chưa được giải quyết thì tòa có thể đình hoãn việc thụ lý lại cho đến lúc các sự khiếu nại đó đã được giải quyết.
Nếu tòa đưa ra án lệnh đồng thuận, hoặc đưa ra phán quyết sau khi có sự tranh cãi giữa các bên đương sự, mà các đệ tam nhân có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi phán quyết này không được thông báo để được thụ lý thì các đệ tam nhân này có quyền thỉnh cầu tòa hủy bỏ phán quyết này.
Tuy nhiên, tòa đã cho rằng tòa chỉ có thẩm quyền tư pháp đối với những “vụ kiện về hôn nhân” (matrimonial cause) và ASIC không phải là một bên đương sự của hôn phối, vì thế tòa không có thẩm quyền tư pháp để giải quyết sự khiếu nại này. Cuối cùng đơn xin của ASIC đã bị bác bỏ.
Tòa đã cho rằng nếu có bất cứ sự khiếu nại nào liên quan đến quyền lợi của đệ tam nhân thì thủ tục khiếu nại đó có thể được tiến hành tại một tòa án khác hơn là Tòa Án Gia Đình. Nói một cách khác, các quyền lợi giữa ASIC và Rich có thể được giải quyết theo luật định tại một tòa án khác.
Thẩm Phán O’Ryan đã tuyên bố rằng mặc dầu tòa đã bác đơn của ASIC nhưng tòa rất quan tâm về quyền lợi của những chủ nợ, khi tòa không có thẩm quyền tư pháp để hủy bỏ án lệnh đồng thuận mà án lệnh đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của đệ tam nhân. Điều này là một sự mâu thuẫn mà tòa đã phải đương đầu trong nhiều năm qua.
Thẩm Phán O’Ryan cũng đã tuyên bố là nếu cho rằng án lệnh đồng thuận đã được ký kết giữa hai vợ chồng vì sự quan tâm đến tương lai tài chánh của người vợ và các đứa con của hôn phối thì điều đó là một điều khó có thể chấp nhận được, vì vào lúc đổ vỡ hôn nhân người vợ có tài sản riêng lên đến trên $13 triệu. Ông cũng đã đưa ra ý kiến là luật lệ cần phải được thay đổi để tòa có thẩm quyền quyết định các sự khiếu nại của đệ tam nhân vào lúc đưa ra án lệnh liện hệ đến việc phân chia tài sản này.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng ông không thể nộp đơn xin tòa án gia đình hủy bỏ án lệnh đồng thuận đã được ký kết giữa vợ chồng người bạn của ông được, vì ông không phải là bên đương sự của hôn phối, vì thế tòa án gia đình không có thẩm quyền để giải quyết đơn khiến nại của ông. Tuy nhiên, quyền lợi của ông vẫn có thể được giải quyết theo luật định tại một tòa án khác.
Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được trả lời tường tận hơn.
Trước đây mỗi lần cho anh ta mượn tiền, chúng tôi đều có làm văn kiện cho mượn nợ đúng theo những gì luật pháp đòi hỏi, nhưng những món nợ mà tôi cho mượn, vì tin tưởng vào bạn bè, nên hoàn toàn không có lưu giữ đồ cầm thế hoặc bảo đảm gì cả.
Nay tôi cần tiền và yêu cầu ông ta trả lại cho tôi số tiền đã mượn trước đây thì ông ta cho biết rằng ông đã hoàn toàn trắng tay, vì đã chuyển giao toàn bộ tài sản cho vợ của ông qua án lệnh đồng thuận được chuẩn nhận bởi Tòa Án Gia Đình.
Toàn bộ tài sản, gồm một căn nhà và một căn appartment, trị giá hơn $900,000 đã được ông ta đã chuyển tên cho vợ của ông ta.
Xin LS cho biết là tôi có quyền xin tòa án gia đình hủy bỏ án lệnh đồng thuận đó không"
Trả lời: Điều 90K(1)(b) của “Đạo Luật Gia Đình 1975” (the Family Law Act 1975) quy định rằng: “Tòa có thẩm quyền đưa ra án lệnh để bác bỏ sự thỏa thuận về tài chánh hoặc sự thỏa thuận để kết thúc quan hệ nếu, và chỉ nếu, tòa thỏa mãn được rằng: sự thỏa thuận đó không có hiệu lực pháp lý, có thể bị tuyên bố vô hiệu, hoặc không thể thi hành được.” (A court may make an order setting aside a financial agreement or a termination agreement if, and only if, the court is satisfied that: the agreement is void, voidable, or unenforceable).
Trong vụ ASIC kiện Rich [2003] FamCA 1114. Trong vụ đó, người chồng sinh năm 1960 và người vợ sinh năm 1962, họ kết hôn với nhau vào năm 1987 và hiện vẫn sống chung với nhau, có 3 con.
Người chồng là giám đốc thành lập công ty One.Tel vào năm 1995. Ông nắm giữ chức vụ giám đốc điều hành, và từ chức vào năm 2001.
One.Tel là một “holding company” (công ty mẹ) nắm quyền kiểm soát một nhóm các công ty khác làm thương nghiệp về truyền thông tại Úc và tại nhiều quốc gia khác.
[Ghi chú: holding company (công ty mẹ, công ty nắm quyền kiểm soát): Công ty nắm quyền kiểm soát đối với một hoặc nhiều “công ty con” [công ty phụ thuộc] khác, do sự làm chủ về cổ phiếu, hoặc do sự kiểm soát đa số phiếu tại bất cứ cuộc họp nào. (A company holding a control over one or more other subsidiaries, either through the ownership of shares, or through control of the majority votes at any meeting)].
Trong thời gian giữa tháng 5 và tháng 6 năm 2001, người chồng đã chuyển hầu hết các tài sản do ông ta làm chủ sang cho vợ của ông.
Vào 29 tháng 5 năm 2001, Ban Giám Đốc của công ty đã đưa ra quyết định là đặt công ty dưới sự quản trị vì đang nằm trong tình trạng vỡ nợ.
Vào ngày 31/5/2001, ASIC (Australian Securities and Investment Commission) (Ủy Ban Chứng Khoán và Đầu Tư Úc Đại Lợi) đã khởi sự việc điều tra người chồng vì nghi ngờ có sự vi phạm luật lệ của công ty.
Điều quan trọng là vào ngày 31/5/2001 người chồng và vợ của ông ta đã ký kết sự thỏa thuận về tài chánh dựa vào điều 90C của Đạo Luật Gia Đình.
Theo các điều khoản của bản thỏa thuận này thì người chồng đồng ý chuyển hầu hết tài sản của ông sang cho vợ của ông ta. Trước khi ký kết bản thỏa thuận này thì vợ của ông ta có $13,067,000 và ông ta có $9,455,000. Với sự thỏa thuận tài chánh, người chồng chỉ nhận 17% toàn bộ tài sản. Cuối cùng vào ngày 24/7/2001 công ty đã tuyên bố vỡ nợ.
Theo bằng chứng được trưng dẫn thì người chồng, trong thời gian nắm giữ chức vụ giám đốc điều hành, đã vi phạm một số điều khoản thuộc Đạo Luật Công Ty và đã gây ra sự thiệt hại cho công ty một khoản tiền từ $62 triệu đến $93 triệu. ASIC bèn nộp đơn xin tòa hủy bỏ bản thỏa thuận tài chánh.
Vấn đề được đặt ra ở đây là liệu tòa án gia đình có thẩm quyền tư pháp để giải quyết quyền lợi của các đệ tam nhân khi đưa ra phán quyết liên hệ đến sự thỏa thuận tài chánh này hay không"
Theo luật, có rất nhiều phán quyết thiết định rằng nhiệm vụ của các bên đương sự cũng như tòa án phải thông báo cho những cá nhân hoặc công ty mà những cá nhân hoặc công ty này có thể bị ảnh hưởng bởi án lệnh.
Những cá nhân hoặc công ty này gồm các chủ nợ hoặc những người nộp đơn khiếu nại và những người này có quyền can dự hoặc được thụ lý về sự khiếu nại như đã được quy định bởi Đạo Luật Gia Đình.
Điều này có nghĩa là nếu có những món nợ còn thiếu đối với đệ tam nhân, thì các món nợ này phải được chi trả bằng cách xử dụng tại sản chung của hai vợ chồng trước khi tòa đưa ra án lệnh chia tài sản.
Nếu chủ nợ hoặc sự đòi nợ có thể bị ảnh hưởng bởi án lệnh thì các chủ nợ phải được thông báo và được quyền thụ lý, hoặc nếu có những vấn đề khiếu nại chưa được giải quyết thì tòa có thể đình hoãn việc thụ lý lại cho đến lúc các sự khiếu nại đó đã được giải quyết.
Nếu tòa đưa ra án lệnh đồng thuận, hoặc đưa ra phán quyết sau khi có sự tranh cãi giữa các bên đương sự, mà các đệ tam nhân có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi phán quyết này không được thông báo để được thụ lý thì các đệ tam nhân này có quyền thỉnh cầu tòa hủy bỏ phán quyết này.
Tuy nhiên, tòa đã cho rằng tòa chỉ có thẩm quyền tư pháp đối với những “vụ kiện về hôn nhân” (matrimonial cause) và ASIC không phải là một bên đương sự của hôn phối, vì thế tòa không có thẩm quyền tư pháp để giải quyết sự khiếu nại này. Cuối cùng đơn xin của ASIC đã bị bác bỏ.
Tòa đã cho rằng nếu có bất cứ sự khiếu nại nào liên quan đến quyền lợi của đệ tam nhân thì thủ tục khiếu nại đó có thể được tiến hành tại một tòa án khác hơn là Tòa Án Gia Đình. Nói một cách khác, các quyền lợi giữa ASIC và Rich có thể được giải quyết theo luật định tại một tòa án khác.
Thẩm Phán O’Ryan đã tuyên bố rằng mặc dầu tòa đã bác đơn của ASIC nhưng tòa rất quan tâm về quyền lợi của những chủ nợ, khi tòa không có thẩm quyền tư pháp để hủy bỏ án lệnh đồng thuận mà án lệnh đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của đệ tam nhân. Điều này là một sự mâu thuẫn mà tòa đã phải đương đầu trong nhiều năm qua.
Thẩm Phán O’Ryan cũng đã tuyên bố là nếu cho rằng án lệnh đồng thuận đã được ký kết giữa hai vợ chồng vì sự quan tâm đến tương lai tài chánh của người vợ và các đứa con của hôn phối thì điều đó là một điều khó có thể chấp nhận được, vì vào lúc đổ vỡ hôn nhân người vợ có tài sản riêng lên đến trên $13 triệu. Ông cũng đã đưa ra ý kiến là luật lệ cần phải được thay đổi để tòa có thẩm quyền quyết định các sự khiếu nại của đệ tam nhân vào lúc đưa ra án lệnh liện hệ đến việc phân chia tài sản này.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng ông không thể nộp đơn xin tòa án gia đình hủy bỏ án lệnh đồng thuận đã được ký kết giữa vợ chồng người bạn của ông được, vì ông không phải là bên đương sự của hôn phối, vì thế tòa án gia đình không có thẩm quyền để giải quyết đơn khiến nại của ông. Tuy nhiên, quyền lợi của ông vẫn có thể được giải quyết theo luật định tại một tòa án khác.
Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được trả lời tường tận hơn.
Gửi ý kiến của bạn