Hôm nay,  

Bữa Nay Mẹ Tôi Mất

8/24/200200:00:00(View: 4342)
Kẻ Xa Lạ của nhà văn Pháp Albert Camus, thuật câu chuyện anh chàng Meursault, được tin mẹ mất (Bữa nay mẹ tôi mất. Có thể bữa qua, tôi không biết. Tôi nhận được điện tín từ nhà dưỡng lão...), đi đám tang, trở lại sở làm, đi chơi với em và giết người tại bãi biển. Hỏi động cơ giết người, hỏi tại sao bắn thêm bốn phát nữa vào cái thân thể đã bất động, anh trả lời, tại mặt trời (à cause du soleil). Vẫn mặt trời ngày chôn mẹ. Tất cả được kể bằng một giọng văn đều đều, như muốn gạt bỏ mọi tình cảm, mọi phản ứng, trước bất cứ một "vụ việc". Một thứ văn chương "trung tính" (neutre), "một cách viết trắng", như Roland đã từng đọc Camus trong Không Độ Của Cách Viết. Tại sao một câu chuyện như thế lại quyến rũ không biết bao nhiêu thế hệ độc giả, nhất là đúng vào tuổi mới lớn"
Với họ, đây là một thứ sách-thờ (le livre culte), và tác giả của nó, "đẹp như Borgart, lái xe như James Dean, điếu thuốc lá luôn gắn trên miệng" (và chỉ bị lấy bỏ, trên con tem tưởng niệm ông!): Một kẻ dẫn đường, một bậc thầy đạo đức của thế hệ, của nhiều thế hệ"
***
"Tôi sinh ở Bạc Liêu năm 1958 trong một gia đình có tập quán đối nghịch, là mẹ Nam, lấy việc làm thay lời nói, và bố Bắc, gần như ngược lại, lấy lời nói thay việc làm. Tôi không khớp với người Nam bởi một ít máu Bắc, và cũng không trùng với người Bắc bởi một phần tính Nam. Tôi là sản phẩm méo mó của cái quan hệ nhùng nhằng đó. Nó ảnh hưởng nhiều đến cách nghĩ và thái độ của tôi. Tôi hiện sống ở Sài Gòn, và đã in hai tập thơ: Đêm Mặt Trời Mọc (1990) và Khí Hậu Đồ Vật (1997).

Tôi bị gọi nhập ngũ năm 1979, và có hai năm đứng trong hàng ngũ đi dép râu, đội nón cối và bắn vài loạt AK, nhưng cũng may chưa ra trận. Tôi nghĩ, nếu đánh nhau, tôi dễ trở thành một tù binh, hoặc một hàng binh, hoặc là người bị bắn đầu tiên. Không lâm trận nhưng cũng bị hai vết thẹo: một vết loét trong dạ dày vì đói và ăn bậy, một vết thẹo trong tâm lý, do bị dồn nén từ áp lực của một tập thể luôn bị bơm căng. Trong hai năm đó, tôi nhận ra tính hiếu chiến gần như bản năng tiềm ẩn trong con người Việt Nam, và điều đó làm tôi hoảng sợ hơn những cuộc đọ súng tưởng tượng với Pôn Pốt. Nhưng cũng may, nhờ loét dạ dày tôi được giải ngũ sớm.

Kẻ Xa Lạ, Thời Của Kẻ Giết Người, Zarathrustra Đã Nói Như Thế, là những cuốn sách không chỉ in những dấu ấn, nó còn là cây búa đập vỡ tôi ra. Kẻ Xa Lạ, Lê Thanh Hoàng Dân dịch của Camus, đọc lần đầu năm 1974, nó đã tác dụng đến tôi như một trận hỏa, thiêu rụi mọi cái ảo trong trí tưởng về sự hiện hữu của con người, và thay vào đó, là cái trơ trọi cứ lớn dần trong cảm thức. Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người. Thời Của Kẻ Giết Người, Phạm Công Thiện dịch của Henry Miller viết về Rimbaud, đối với tôi lúc đó, hơn bất luận một giáo trình tâm lý và mỹ học nào, nó là tấm gương soi cho những kẻ đồng căn nhận ra tính nguyên sơ của cái đẹp thấu thị, và tính chất đó chỉ đạt đến trong ý thức nổi loạn. Zarathrustra Đã Nói Như Thế, Trần Xuân Kiêm dịch của Nietzsche, giáng vào tôi một khoái cảm điếng người của sự đứt đoạn, sự lìa bỏ, và sự vượt lên. Nó lắp đặt cho ý thức một cỗ máy tinh xảo để lọc mọi thứ cặn trong truyền thống cảm xúc ẩm thải ra từ đời sống và từ văn chương. Những cuốn sách đó đã thiết kế ý thức cá nhân của tôi đề kháng lại cái môi trường bán khai của qyyền lực tập thể, luôn thấy trong cá tính mối nguy hiểm cho sự an toàn tạm bợ của nó. Ngoài ra, sự không tưởng về kinh tế, chuyên chế về chính trị ở Việt nam sau chiến tranh đã gây ra những tai biến, những xung đột, những xáo trộn khắc nghiệt trong tâm lý, nên những hình ảnh kỳ dị, những ý tưởng đột ngột trong những câu thơ, kiểu: súng lục có tóc trắng, ruột gan của đá, không khí là một rễ cây, đá là cây của những đám mây... tức thì nhập vào tôi như một cơn gió độc; và thi pháp thơ siêu thực, mặc nhiên biến thành hơi thở, máu thịt, và làm nên phần chính yếu trong ý thức nghệ thuật của tôi. Vào thời đó, sách dịch từ Liên Xô độc chiếm trong các tiệm sách, và hầu hết những cuốn sách đều mặc đồng phục..."
Nguyễn Quốc Chánh
(Trích phỏng vấn, do Đinh Linh thực hiện, đăng lại trên diễn đàn Talawas)
***
Tôi đọc Kẻ Xa Lạ, hình như là vào năm 1958 thì phải, và cơn chấn động của nó đánh bật tôi ra khỏi giảng đường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn.
1974, Nguyễn Quốc Chánh đọc nó, cũng tại thành phố Sài Gòn của tôi, và như ông cho biết, nó đã tác dụng tới ông như một trận hỏa...
Hai người đọc cùng một cuốn sách, trước và sau một cuộc chiến, và gần như cùng bị chấn động như nhau. Có vẻ như cuốn sách chẳng cần một thời gian, một biến cố lịch sử nào để mà biện minh. Có vẻ như nó mãi mãi thuộc về một thời mới lớn, như tác giả của nó, khi viết nó: "Camus ư" Đây là một tấm hình của ông. Một khuôn mặt đẹp, trầm trọng, một cái nhìn buồn bã, và dịu dàng của người thức đêm, trông chừng những cơn mộng của thời mới lớn...".


Và đây là câu văn mở đầu của một cuốn tiểu thuyết sẽ mãi mãi làm ngỡ ngàng những người trẻ tuổi:
"Bữa nay mẹ tôi mất" (Aujourd'hui maman est morte).

Camus rất mê câu thơ của Rilke:
Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có cứu rỗi. (Là où croit le danger, croit aussi ce qui sauve).
Như thể ông đã nhìn ra, sau Lò Thiêu, vẫn còn có cứu rỗi"
Và đó là giá mà Âu Châu phải trả để có được giải phóng, và sau đó, tự do"
Nhưng như một nhà phê bình Pháp, Bernard Henry- Lévy, trên tạp chí Le Point (số đặc biệt về Camus, tháng Tám 1993) đã nhìn ra ở ông: Càng ngày Camus càng muốn đảo ngược câu thơ của Rilke:
Ở đâu có hòa bình, ở đó có hiểm nguy. (Là où vient la paix, croit aussi le temps des dangers).
Liệu có thể áp dụng hai câu thơ trên, cho hai độc giả của Kẻ Xa Lạ, một trước, và một sau, cuộc chiến Việt Nam"

Nguyễn Quốc Chánh viết, "Khi còn là sinh viên, tôi vẫn đọc nó, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, và cả về sau, tôi tin, tư tưởng của Camus trong Kẻ Xa Lạ là nền tảng đạo đức không xa lạ nữa với mỗi người". Chúng ta tự hỏi, đâu là nền tảng đạo đức của Camus"

Trong một bài viết trên tờ Le Point, là lộ trình của Camus, "Từ Alger tới Paris, từ thập niên 30 tới ngày 4 tháng Giêng 1960 - ngày ông tử nạn xe hơi - Camus đi theo những biến động của thời cuộc. Ông cảm thấy thất vọng, thương tổn, và do đó, thật gần gũi."
Kẻ xa lạ, Camus, đến từ mặt trời Địa Trung Hải đã thất vọng, lần đầu gặp Paris, và khám phá vẻ nham nhở, xám xịt, mưa, những người gác cổng, và những vụ tự tử vô danh trong những căn phòng khách sạn, như trong Sổ Ghi của ông, vào năm 1940, khi định cư tại đây: "Đọc Paris Buổi Chiều và cảm thấy trái tim của thành phố ê hề trên những trang báo, cái tính đê tiện của một cô thợ khâu.... Nó [Paris] thì thối rữa. Sướt mướt, mỹ miều, vui lòng khách đến, chốn ẩn trú nhớm nhúa, nơi con người phải cố mà sống trong một thành phố quá tàn bạo đối với nó."
Cảm giác đầu tiên và cũng là cuối cùng: Chẳng bao giờ ông có được một từ dịu dàng với thành phố đó. Ông cảm thấy lạc lõng, xốn xang. Đây là một con người khốn khổ vì hoài nghi, vì nghĩ rằng mình vô ích, vô tích sự, và chỉ cảm thấy dịu đi một phần nào, bằng những câu vắn ngắn thật sáng sủa, chỉ để tố cáo sự bất công của cõi người.
Sự thực, ông ở đâu đó, không ở chỗ đó: Paris. Ngay cả khi đã nổi tiếng, sau khi Kẻ Xa Lạ xuất bản, vào năm 1942, chẳng có một câu nào trong Sổ Tay nói lên niềm vui của ông, mà chỉ là niềm kinh hoàng (effroi). Ông bị chấn động bởi nỗi khốn cùng, mà ông chứng kiến, khi đi đi về về trên xe lửa, từ Saint-Étienne tới Chambon-sur-Lignon, nơi ông phải tới để chữa trị chứng lao phổi.

Và Camus viết về đạo đức:
"Tôi đã cố gắng bằng tất cả sức lực của tôi, biết rất rõ những yếu đuối của mình, để trở thành một con người của đạo đức. Đạo đức, chính nó, giết. (La Morale tue).

Vào cái thời cực thịnh của Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh Tâm Tuyền đã coi Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời, ngó xuống thế gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông vào quá khứ.
Khi gọi Camus là một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến tác phẩm "Những người công chính", Les Justes, của Camus. Nhưng "juste", ở đây theo tôi, còn muốn nhắc tới huyền thoại về một con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man) của dân tộc Do-thái. Đây là một huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng, như là một biểu tượng để nói về phận người, (nhất là phận người Do Thái, trong thế kỷ của Lò Thiêu), thí dụ như trong truyện ngắn Cây Vĩ Cầm (Rothschild's Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên VHNT và VBOL). Hoặc trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng", (của André Schwarz-Bart, đã được giải thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959), theo đó, thế giới ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công chính, le juste, hay lamed-waf, người què gánh tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà trời" (les racines du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài, họ chẳng khác gì những con người bình thường. Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau. Nhưng chỉ cần một, trong số 36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con người làm độc ngay cả đến tâm hồn của những trẻ thơ, và nhân loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương này. Bởi vì "lamed waf" là trái tim của thế gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống đó. Khi một kẻ công chính vô danh về trời, trái tim của người đó giá lạnh đến nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn năm trong lòng bàn tay của Người, để sưởi ấm cho nó. Và như người ta được biết, hầu hết trong số họ, trái tim chẳng làm sao ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng chịu thua. Và Người thỉnh thoảng lại phải vặn nhanh lên 'một phút' chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.

Liệu chúng ta có thể coi Camus là người công chính cuối cùng của... loài người"

NQT (http://saomai.org/~tinvan/unicode/index.html)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Hoan hỷ chào nhau cầu xưa quá bước Dặm đường im kẽ tóc với chân tơ Tan hợp cười òa. Kia vòm mây trắng Và bắt đầu. Và chấm hết. Sau xưa… . 4.2021 (Gửi hương linh bạn hiền Nguyễn Lương Vỵ, lễ 49 ngày)
Trong mọi hoàn cảnh Anh vẫn không ngừng hoạt động, Anh vẫn cứ đứng ở ngoài nắng - chữ của Mai Thảo. Với tôi, Nhật Tiến - Én Nhanh Nhẹn RS, vẫn cứ mãi là một Tráng Sinh Lên Đường
Lời dịch giả: Đây là bức tâm thư của cựu tổng thống George W. Bush gởi người dân Mỹ trong lúc cả nước đang sôi sục sau cái chết của George Floyd.
NYC với mình như căn nhà thứ hai, thế mà đã hơn một năm rồi mới lên lại. Thường thì hay lên mùa Giáng Sinh, hay Tháng Hai mùa đông để coi tuyết ở Central Park, và tháng Mười Một để coi lá vàng. Lần nầy chỉ mới tháng ba, nhưng có lý do
Xúc động với kỷ niệm. Thơ và nhạc đã nâng cảm xúc về những cái đẹp mong manh trong đời... Đêm Nhạc Người Về Như Bụi, và buổi ra mắt Tuyển Tập 39 Văn Nghệ Sĩ Tưởng Nhớ Du Tử Lê đã hoàn mãn hôm Thứ Ba 14/1/2019.
chiều rớt/xanh/ lưỡi dao, tôi khứng! chờ ... mưa tới. Hai câu cuối trong bài “chiều rớt/xanh/lưỡi dao” anh viết cuối tháng 9/2019 như một lời giã biệt. Và, cơn mưa chiều 7.10.2019 đã tới, anh thay áo mới chân bước thảnh thơi trở về quê cũ. Xin từ biệt anh: Du Tử Lê!
trong nhiều năm qua, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng trưởng ở mức hai con số, nhưng tỷ lệ quay trở lại thấp (chỉ từ 10% đến 40%) . Chi tiêu của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam không cao
Theo bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế năm 2018, Việt Nam đứng hạng 117/ 180 với mức điểm 33/100. Bao giờ mà chế độ hiện hành vẫn còn tồn tại thì “nạn nhũng nhiễu lạm thu” sẽ vẫn còn được bao che và dung dưỡng khắp nơi, chứ chả riêng chi ở Bộ Ngoại Giao
Chính phủ Hoa Kỳ đã hứa tài trợ 300 triệu đô la để làm sạch môi trường bị nhiễm chất độc da cam của phi trường Biên Hòa và hôm 5 tháng 12 là bắt đầu thực hiện việc tẩy rừa tại khu vực này, theo bản tin hôm 6 tháng 12 của báo Tuổi Trẻ Online cho biết như sau.
Hơn 1.000 người có thể đã bị giết bởi lực lượng an ninh ở Iran trong các cuộc biểu tình gần đây, theo một quan chức cấp cao của bộ ngoại giao cho biết hôm Thứ Năm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.