Trước đó, vào năm 1929, ông đã thử tay nghề, với cuốn “Tôi nghĩ về Daisy”, nhưng chẳng ma nào thèm đọc (not a success). Thành thử, ông ngạc nhiên với chính mình, cớ sao lại tham vọng cùng mình, dám đụng tới - những nhân vật lịch sử như là... Quang Trung, Nguyễn Huệ - ấy chết xin lỗi - vị cha già của chủ nghĩa CS, Lê nin, và xuyên xuốt cuộc đời cha già, là cả một thời kỳ lịch sử nóng bỏng của tư tưởng CS, từ Cách Mạng Pháp tới Cách Mạng Nga. Nhưng ông thấy mờ mờ hiện ra, sau bức màn hoành tráng của lịch sử đó, là hình ảnh của... một cuốn tiểu thuyết! “Tôi quýnh lên, vì cuộc thách đố” (I found myself excited by the challenge), ông cho biết sau đó. Chút men say – của cuộc thánh đố – như sôi lên cùng câu văn bỗng hiện ra ở trong đầu Wilson, “I go to encounter for the millionth time the reality of experience and to forge in the smithy of my soul the uncreated conscience of my race.” (Câu nói của Dedalus, ở cuối cuốn Chân Dung, của Joyce, tạm dịch: Tôi tới chỗ hẹn lần thứ một triệu, với thực tại kinh nghiệm, và trong cái lò cử là linh hồn tôi, rèn đúc ý thức nòi giống của mình, vốn chưa từng được tạo ra). Còn cái tựa đề (như một ẩn dụ nói lên Ngày Mai Ca Hát"), mượn đỡ tên một tác phẩm của người đẹp thành London, Virginia Woolf, “To the Lighthouse” (Tới Ngọn Hải Đăng).
Đã từng có kinh nghiệm từ những chuyến đi thăm công nhân mỏ tại vùng Appalachia và Detroit. (Do an ủi, và tiếp tế lương thực cho những người thợ đình công tại Pineville, Kentucky, ông đã bị nhà cầm quyền địa phương cầm lá chuối lót tay, đá đít, cấm cửa), Cơn Suy Thoái làm ông mừng (Cho chết mẹ mày, hỡi con quái vật nhà máy tư bản chủ nghĩa!). Mặc dù hoài nghi Đảng CS, ông hân hoan hồ hởi ôm lấy Chủ nghĩa Mác. Ông bỏ phiếu cho ứng cử viên CS, William Z. Foster, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, và cùng năm, ký tên vào bản tuyên ngôn kêu gọi “một chính sách độc tài tạm thời có tính giai đoạn của những công nhân có ý thức giai cấp” (“a temporary dictatorship of the class-conscious workers.”)
Tuy chẳng bao giờ thò bút ký đơn xin gia nhập Đảng, nghĩa là chẳng bao giờ là một tay CS, nhưng ông tin tưởng, chỉ những người CS mới thực tình giúp đỡ giai cấp công nhân. Vào năm 1935, khi bắt đầu lao vào việc viết “To the Finland Station”, ông còn cố dụ khị ông bạn của mình là nhà văn Dos Passos, rằng Stalin đúng là một tay CS thứ thiệt, “làm việc cho chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô” (a true Marxist, “working for socialism in Russia.”).
Chẳng bao lâu liền sau đó, ông “bèn” đi Nga. Và sau đó, viết về những chuyến đi thăm Quê Người, xen lẫn những chuyến đi thăm Quê Mình (Mỹ), nhan đề đầy ấn tượng, “Những chuyến đi giữa Hai Nền Dân Chủ” “Travels in Two Democracies.” Tuy nhiên, ông đã tự kiểm duyệt, bỏ những chi tiết ghi trong nhật ký về nỗi sợ và sự áp bức, kìm kẹp mà ông chứng kiến tại Liên Bang Xô Viết. Và đến năm 1938, ông đành không cho phép mình giả đò nữa, và cho lật tẩy con bài xã hội chủ nghĩa: Họ chẳng những chưa bắt đầu xây dựng những định chế dân chủ. Chưa kịp bắt đầu thì đã trật đường rầy rồi”, ông thú nhận với một người bạn. “Họ có sự thống trị mang tính toàn trị, bởi một bộ máy chính trị” (“They have totalitarian domination by a political machine.”). Ông hiểu rõ, cuốn sách của mình sẽ rất “đoạn trường”. Vào tháng Mười 1939 ông buồn bã báo cho Louise Bogan, “Liên Xô đang tính nuốt Phần Lan, còn tôi đang cố tới đó, (cố kết thúc cuốn sách).
To the Finland Station được nhà Harcourt Brace xuất bản tháng Chín, 1940. Không đúng thời điểm tốt đẹp cho một cuốn sách với nhân vật chính của nó là Vladimir Lenin. Một tháng trước đó, tại Mexico, ông trùm của Đệ Tứ Quốc Tế, Leon Trotsty bị chẻ đôi cái đầu bằng một cái dìu chặt đá lạnh (ice axe). Một năm trước đó, Liên Bang Xô Viết đã ký với Đức Nazi bản hiệp ước bất tương xâm, mặc nhiên cho phép Hitler xâm lăng Ba Lan. Năm năm trước đó, Stalin đã đi một đường quét dọn sạch sẽ đối lập chính trị bên trong Liên Bang Xô Viết. Cuộc dọn sạch cỏ “dại” này, là tiếp nối của chương trình tập thể hóa mà hậu quả của nó là cái chết của trên năm triệu người. Vào năm 1940, trí thức Tây Phương kể như vỡ mộng chủ nghĩa CS. Andre Gide, George Orwell, và Dos Passos đã viết những những bản kết toán mới tinh (firsthand accounts) về sự tàn bạo và đạo đức giả của chủ nghĩa CS đương thời – Gide và Dos Passos, sau khi đi Nga về, Orwell, sau khi chiến đấu cùng với những phần tử Loyalists tại Tây ban Nha. Tạp chí Partisan Review (Mỹ), trở thành “tiền đồn” chống Cộng.
Vào tháng Giêng, 1947, “Tới Ga Phần Lan” chỉ bán được 4,527 bản. Nhà xb Doubleday mua lại bản quyền, và tái xuất bản cùng năm, nhưng sách bán ra chỉ lèo tèo. Số mệnh chỉ mỉm cười với nó, với ấn bản bìa mỏng, và cũng là cuốn đầu tiên của nhà sách Anchors, vào năm 1953. Mãi lực khá hẳn ra, vào thập niên 1960, vào năm 1972, tức là năm Wilson từ giã cõi đời, nhà sách Farrar, Straus & Giroux cho ra lò một ấn bản mới, với lời tựa “Nhìn Lại Những Trang Viết Cũ”, đúng ra là nhìn lại Chủ Nghĩa Cộng Sản Xô Viết. “Cuốn sách của tôi,“ ông giải thích, “cho thấy, qua nó, là một bước tiến bộ quan trọng, đã được thực hiện, một ‘đột phá’ đã xẩy ra, và lịch sử nhân loại chẳng còn như trước nữa. Có điều, tôi không ngửi ra được, mùi của thảm họa, rằng Liên bang Xô Viết sẽ trở nên sau đó, một trong những chế độ bạo tàn ghê tởm nhất của nhân loại, và Stalin, một trong những hoàng đế độc ác nhất, và không hề có mảy may tính người, của nước Nga. Cuốn sách của tôi do đó, có thể đọc, như là một bản kết toán khả dĩ tin cậy được, nói về cơ bản, về điều, mà những nhà cách mạng nghĩ rằng, họ đang làm, là vì những quyền lợi cho một thế giới “tốt đẹp hơn’.”
[Với cuộc chiến Iraq hiện đang nóng bỏng, khét lẹt, liệu, những “nhìn lại” của Wilson, là những “nhìn tới”, của chúng ta"].
Jennifer Tran