Nếu trong vụ vận động truất bãi Thống đốc California, đảng Cộng hòa đã dại dột “tự bắn vào chân” theo lối nói của người Mỹ, thì trong cuộc chiến Iraq, các ứng cử viên tống thống của đảng Dân chủ có thể đã... tự vả vào miệng, và đây là điều bất lợi cho Hoa Kỳ.
Ngược với hy vọng của đảng Dân chủ là Tổng thống Bush có thể thất cử năm tới vì tình hình kinh tế thì cũng ngược với hy vọng của đảng Cộng hòa, một vấn đề đối ngoại là Iraq cũng có thể làm ông Bush bị đánh bại. Đây là nội dung của hai bài nhận định về bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ đã được đăng tải (“Lý do thắng cử của Bush” và “Vì sao ông Bush có thể thất cử" Chủ Nhật 13 và 20 tháng Bảy). Nhưng trong giả thuyết đó, Hoa Kỳ sẽ có chánh sách gì tại Iraq và toàn vùng Trung Đông" Câu hỏi này là một giả thuyết u ám cho nước Mỹ vì đến nay, lập trường về Iraq của các ứng viên tổng thống bên phía đảng Dân chủ chỉ là một chuỗi dài đả kích ông Bush. Đây là lý do vì sao đảng Dân chủ khó hy vọng thành công, mà nếu có thành công thì chánh sách của Mỹ tại Trung Đông sẽ lại là một vấn đề nhức đầu cho thế giới.
Trong một bài nhận định trước (“Đảng Dân chủ ngã ở bên trái”, Chủ Nhật 21 tháng Sáu) chúng ta thấy các ứng viên Dân chủ đã quá ngả về phía tả và có thể thất cử. Tuần qua, tổ chức Democratic Leadership Council thuộc khuynh hướng ôn hòa trong đảng Dân chủ cũng nhận định như trên. Đảng Dân chủ đã thất cử ba lần liền (1980-1984-1988) vì đưa ra các ứng cử viên quá tả. Vì sự chủ quan của George Bush (gọi là Bush 41, vị tổng thống thứ 41 để phân biệt với George W. Bush, hay Bush 43 vị tổng thống thứ 43 của Mỹ) trong ấn tượng thiếu khởi sắc của nền kinh tế, William Jefferson Clinton đã thắng cử năm 1992. Là chủ tịch của tổ chức Democratic Leadership Council (DLC) nói trên và ra tranh cử với một chương trình hành động thiên tả, Bill Clinton sớm hiểu ra thực tế nên linh động từ bỏ sự chủ quan cố hữu mà chuyển vào xu hướng ôn hòa ở giữa và áp dụng cả những đề nghị cố hữu của đảng Cộng hòa để tái đắc cử năm 1996. Ông thành khuôn mặt tiêu biểu cho trào lưu “Tân Dân chủ” với thành tích là tổng thống hai nhiệm kỳ đã lãnh đạo khi kinh tế Mỹ được 10 năm tăng trưởng liên tục.
Nhưng ngày nay tổ chức DLC của ông mất dần ảnh hưởng trong đảng Dân chủ vì sự phân hóa giữa ba ứng viên thuộc phe ôn hòa bên trong là Joe Lieberman, John Kerry và John Edwards và vì những tai tiếng của chính quyền Clinton-Gore lẫn sự thất bại của Al Gore trong vụ tranh cử 2000 với lập trường đại chúng mị dân mà không có quan điểm rõ rệt. Với ưu thế kinh tế thịnh vượng trước một đối thủ có vẻ là chính trị tay mơ vì mới chỉ là thống đốc Texas có sáu năm, Gore vẫn không thắng nổi Bush chính là vì nhược điểm của cá nhân ông và dẫn theo đà tuột dốc của DLC trong quần chúng đảng viên Dân chủ. Nhưng, cũng vì sự thắng thế đáng dị nghị của George W. Bush (nhờ phán quyết của Tối cao Pháp viện) quần chúng đảng viên Dân chủ mang một mối hận với Bush 43.
Mối hận đó đang làm mờ mắt các ứng cử viên tổng thống hiện nay và có thể sẽ làm đảng Dân chủ thất cử lần nữa.
Đảng này đang mất lá phiếu của cử tri nam giới, da trắng và gốc Á châu, lại quá tập trung vào thành phần biên tế (phụ nữ, da đen và gốc Latino, giới đồng tính, ủng hộ phá thai) và theo đuổi một chánh sách quá tả, đẩy xu hướng Tân Dân chủ của Clinton vào phía ôn hòa có lợi cho Bush. Ông Bush hiện chiếm ưu thế trong thành phần ôn hòa, các gia đình có đủ vợ chồng con gái bình thường sống tại ngoại ô, và các tiểu bang miền Nam và miền Tây. Và trong khi chính quyền Bush đang lúng túng tại Iraq (đến độ ta nêu giả thuyết là lý do duy nhất khiến ông thất cử chính là vụ Iraq) thì hầu hết các ứng viên đều khai thác hồ sơ này, và khai thác theo chiều hướng bất lợi cho cả đảng Dân chủ lẫn Hoa Kỳ.
Vụ Iraq là một vấn đề đối ngoại và trong lãnh vực đối ngoại, người ta thường thấy sự đồng thuận giữa hai đảng. Ban đầu, khi Hoa Kỳ khai diễn chiến dịch A Phú Hãn rồi cả chiến dịch Iraq, dự đồng thuận lưỡng đảng được thể hiện ở lập trường ủng hộ chính quyền Bush trong Quốc hội. Sau đó, cả những ứng viên từng bỏ phiếu hậu chuẫn chính quyền như John Kerry hay Dick Gephardt đều xoay chiều. Nghị sĩ Bob Graham của tiểu bang Florida còn đòi bãi nhiệm tổng thống vì vụ Iraq và Howard Dean, thống đốc Vermont, người chống tham chiến tại Iraq từ đầu đang dẫn đầu xu hướng mị dân đại chúng để đả kích ông Bush. Ứng cử viên ôn hòa và đứng đắn nhất và là người duy nhất ủng hộ lập trường chủ chiến là Joe Lieberman thì đang mất điểm trong đảng.
Xét kỹ vào nội dung đả kích, người ta thấy ra một điều rất đáng ngại. Đa số các ứng viên Dân chủ đều như người tiến về phía trước mà cứ nhìn vào kính chiếu hậu: không đề nghị bất cứ giải pháp nào cho vấn đề chính là nạn khủng bố hoặc hồ sơ nóng là việc bình định Iraq hoặc vãn hồi hòa bình tại Trung Đông, giữa Israel và Do Thái, họ chỉ hạch hỏi chính quyền về quyết định tham chiến, về 16 chữ trong bài diễn văn về Tình hình Liên bang. Họ muốn quy tội chính quyền là lường gạt dư luận, nêu ra lý do dối trá để tấn công Iraq. Dân biểu Da đen của Harlem tại New York là Charles Rangel còn kết án chính quyền đã ám sát hai người con của Saddam Hussein và vì vậy.... “phạm pháp”. Lý luận kỳ cục này không gặp một phản ứng nào từ trong đảng Dân chủ.
Vì vậy mà các ứng viên ồn ào nhất trong đảng Dân chủ đang gây ra ấn tượng là đảng này thù ghét Bush hơn cả khủng bố, chế độ độc tài của Saddam Hussein và họ quan tâm đến việc tranh cử hơn là đến quyền lợi của Mỹ. Các khuynh hướng cực hữu còn nêu câu hỏi là liệu đảng Dân chủ có còn ái quốc hay không" Trong khung cảnh Hoa Kỳ tiếp tục bị khủng bố đe dọa và đa số cử tri tiếp tục ủng hộ chính sách đối đầu cứng rắn với khủng bố lẫn việc bình định Iraq để triệt tiêu mầm mống khủng bố, lập trường chống Bush đến mờ mắt như vậy là lý do thất cử của đảng Dân chủ.
Nguy hại hơn thế, lập trường đó còn dẫn đến một kết quả tai hại khác: Hoa Kỳ không có một giải pháp nào khác về Iraq trong tương lai ngoài việc trông chờ vào Liên hiệp quốc nếu như chánh sách của Bush thất bại. Cử tri Mỹ vốn bồng bột dễ đổi thay ý kiến và có thể đổi ý nếu Hoa Kỳ không vượt qua nổi những khó khăn hiện nay tại Iraq. Nhưng, nếu một trong các ứng viên Dân chủ lại đắc cử, người ta có thể tin chắc là Mỹ sẽ gây khủng hoảng cho tòan vùng với một lãnh tụ Dân chủ trong tòa Bạch Ốc đã không nắm vững tình hình thực tế ở tại chỗ mà cũng chẳng quan tâm đến đời sống của dân Iraq hay cục diện khó khăn với thế giới Hồi giáo. Cho đến nay, đa số đảng viên Dân chủ chỉ muốn Mỹ rút quân khỏi Iraq, sau đó sự thể ra sao thì không cần biết! Một lãnh tụ Dân chủ cầm đầu Hoa Kỳ sẽ không dám có những quyết định lớn theo đòi hỏi của tình hình thế giới.
Hoa Kỳ là một siêu cường toàn cầu, nhưng lãnh đạo đảng Dân chủ chưa có viễn kiến cho thực tế này và họ còn non một năm nữa để nhìn về trước mắt thay vì nhìn vào sau lưng. Nếu không, thế giới sẽ còn khổ vì một anh khổng lồ chân đất, mắt cận thị không nhìn xa hơn một cuộc tranh cử.
Ngược với hy vọng của đảng Dân chủ là Tổng thống Bush có thể thất cử năm tới vì tình hình kinh tế thì cũng ngược với hy vọng của đảng Cộng hòa, một vấn đề đối ngoại là Iraq cũng có thể làm ông Bush bị đánh bại. Đây là nội dung của hai bài nhận định về bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ đã được đăng tải (“Lý do thắng cử của Bush” và “Vì sao ông Bush có thể thất cử" Chủ Nhật 13 và 20 tháng Bảy). Nhưng trong giả thuyết đó, Hoa Kỳ sẽ có chánh sách gì tại Iraq và toàn vùng Trung Đông" Câu hỏi này là một giả thuyết u ám cho nước Mỹ vì đến nay, lập trường về Iraq của các ứng viên tổng thống bên phía đảng Dân chủ chỉ là một chuỗi dài đả kích ông Bush. Đây là lý do vì sao đảng Dân chủ khó hy vọng thành công, mà nếu có thành công thì chánh sách của Mỹ tại Trung Đông sẽ lại là một vấn đề nhức đầu cho thế giới.
Trong một bài nhận định trước (“Đảng Dân chủ ngã ở bên trái”, Chủ Nhật 21 tháng Sáu) chúng ta thấy các ứng viên Dân chủ đã quá ngả về phía tả và có thể thất cử. Tuần qua, tổ chức Democratic Leadership Council thuộc khuynh hướng ôn hòa trong đảng Dân chủ cũng nhận định như trên. Đảng Dân chủ đã thất cử ba lần liền (1980-1984-1988) vì đưa ra các ứng cử viên quá tả. Vì sự chủ quan của George Bush (gọi là Bush 41, vị tổng thống thứ 41 để phân biệt với George W. Bush, hay Bush 43 vị tổng thống thứ 43 của Mỹ) trong ấn tượng thiếu khởi sắc của nền kinh tế, William Jefferson Clinton đã thắng cử năm 1992. Là chủ tịch của tổ chức Democratic Leadership Council (DLC) nói trên và ra tranh cử với một chương trình hành động thiên tả, Bill Clinton sớm hiểu ra thực tế nên linh động từ bỏ sự chủ quan cố hữu mà chuyển vào xu hướng ôn hòa ở giữa và áp dụng cả những đề nghị cố hữu của đảng Cộng hòa để tái đắc cử năm 1996. Ông thành khuôn mặt tiêu biểu cho trào lưu “Tân Dân chủ” với thành tích là tổng thống hai nhiệm kỳ đã lãnh đạo khi kinh tế Mỹ được 10 năm tăng trưởng liên tục.
Nhưng ngày nay tổ chức DLC của ông mất dần ảnh hưởng trong đảng Dân chủ vì sự phân hóa giữa ba ứng viên thuộc phe ôn hòa bên trong là Joe Lieberman, John Kerry và John Edwards và vì những tai tiếng của chính quyền Clinton-Gore lẫn sự thất bại của Al Gore trong vụ tranh cử 2000 với lập trường đại chúng mị dân mà không có quan điểm rõ rệt. Với ưu thế kinh tế thịnh vượng trước một đối thủ có vẻ là chính trị tay mơ vì mới chỉ là thống đốc Texas có sáu năm, Gore vẫn không thắng nổi Bush chính là vì nhược điểm của cá nhân ông và dẫn theo đà tuột dốc của DLC trong quần chúng đảng viên Dân chủ. Nhưng, cũng vì sự thắng thế đáng dị nghị của George W. Bush (nhờ phán quyết của Tối cao Pháp viện) quần chúng đảng viên Dân chủ mang một mối hận với Bush 43.
Mối hận đó đang làm mờ mắt các ứng cử viên tổng thống hiện nay và có thể sẽ làm đảng Dân chủ thất cử lần nữa.
Đảng này đang mất lá phiếu của cử tri nam giới, da trắng và gốc Á châu, lại quá tập trung vào thành phần biên tế (phụ nữ, da đen và gốc Latino, giới đồng tính, ủng hộ phá thai) và theo đuổi một chánh sách quá tả, đẩy xu hướng Tân Dân chủ của Clinton vào phía ôn hòa có lợi cho Bush. Ông Bush hiện chiếm ưu thế trong thành phần ôn hòa, các gia đình có đủ vợ chồng con gái bình thường sống tại ngoại ô, và các tiểu bang miền Nam và miền Tây. Và trong khi chính quyền Bush đang lúng túng tại Iraq (đến độ ta nêu giả thuyết là lý do duy nhất khiến ông thất cử chính là vụ Iraq) thì hầu hết các ứng viên đều khai thác hồ sơ này, và khai thác theo chiều hướng bất lợi cho cả đảng Dân chủ lẫn Hoa Kỳ.
Vụ Iraq là một vấn đề đối ngoại và trong lãnh vực đối ngoại, người ta thường thấy sự đồng thuận giữa hai đảng. Ban đầu, khi Hoa Kỳ khai diễn chiến dịch A Phú Hãn rồi cả chiến dịch Iraq, dự đồng thuận lưỡng đảng được thể hiện ở lập trường ủng hộ chính quyền Bush trong Quốc hội. Sau đó, cả những ứng viên từng bỏ phiếu hậu chuẫn chính quyền như John Kerry hay Dick Gephardt đều xoay chiều. Nghị sĩ Bob Graham của tiểu bang Florida còn đòi bãi nhiệm tổng thống vì vụ Iraq và Howard Dean, thống đốc Vermont, người chống tham chiến tại Iraq từ đầu đang dẫn đầu xu hướng mị dân đại chúng để đả kích ông Bush. Ứng cử viên ôn hòa và đứng đắn nhất và là người duy nhất ủng hộ lập trường chủ chiến là Joe Lieberman thì đang mất điểm trong đảng.
Xét kỹ vào nội dung đả kích, người ta thấy ra một điều rất đáng ngại. Đa số các ứng viên Dân chủ đều như người tiến về phía trước mà cứ nhìn vào kính chiếu hậu: không đề nghị bất cứ giải pháp nào cho vấn đề chính là nạn khủng bố hoặc hồ sơ nóng là việc bình định Iraq hoặc vãn hồi hòa bình tại Trung Đông, giữa Israel và Do Thái, họ chỉ hạch hỏi chính quyền về quyết định tham chiến, về 16 chữ trong bài diễn văn về Tình hình Liên bang. Họ muốn quy tội chính quyền là lường gạt dư luận, nêu ra lý do dối trá để tấn công Iraq. Dân biểu Da đen của Harlem tại New York là Charles Rangel còn kết án chính quyền đã ám sát hai người con của Saddam Hussein và vì vậy.... “phạm pháp”. Lý luận kỳ cục này không gặp một phản ứng nào từ trong đảng Dân chủ.
Vì vậy mà các ứng viên ồn ào nhất trong đảng Dân chủ đang gây ra ấn tượng là đảng này thù ghét Bush hơn cả khủng bố, chế độ độc tài của Saddam Hussein và họ quan tâm đến việc tranh cử hơn là đến quyền lợi của Mỹ. Các khuynh hướng cực hữu còn nêu câu hỏi là liệu đảng Dân chủ có còn ái quốc hay không" Trong khung cảnh Hoa Kỳ tiếp tục bị khủng bố đe dọa và đa số cử tri tiếp tục ủng hộ chính sách đối đầu cứng rắn với khủng bố lẫn việc bình định Iraq để triệt tiêu mầm mống khủng bố, lập trường chống Bush đến mờ mắt như vậy là lý do thất cử của đảng Dân chủ.
Nguy hại hơn thế, lập trường đó còn dẫn đến một kết quả tai hại khác: Hoa Kỳ không có một giải pháp nào khác về Iraq trong tương lai ngoài việc trông chờ vào Liên hiệp quốc nếu như chánh sách của Bush thất bại. Cử tri Mỹ vốn bồng bột dễ đổi thay ý kiến và có thể đổi ý nếu Hoa Kỳ không vượt qua nổi những khó khăn hiện nay tại Iraq. Nhưng, nếu một trong các ứng viên Dân chủ lại đắc cử, người ta có thể tin chắc là Mỹ sẽ gây khủng hoảng cho tòan vùng với một lãnh tụ Dân chủ trong tòa Bạch Ốc đã không nắm vững tình hình thực tế ở tại chỗ mà cũng chẳng quan tâm đến đời sống của dân Iraq hay cục diện khó khăn với thế giới Hồi giáo. Cho đến nay, đa số đảng viên Dân chủ chỉ muốn Mỹ rút quân khỏi Iraq, sau đó sự thể ra sao thì không cần biết! Một lãnh tụ Dân chủ cầm đầu Hoa Kỳ sẽ không dám có những quyết định lớn theo đòi hỏi của tình hình thế giới.
Hoa Kỳ là một siêu cường toàn cầu, nhưng lãnh đạo đảng Dân chủ chưa có viễn kiến cho thực tế này và họ còn non một năm nữa để nhìn về trước mắt thay vì nhìn vào sau lưng. Nếu không, thế giới sẽ còn khổ vì một anh khổng lồ chân đất, mắt cận thị không nhìn xa hơn một cuộc tranh cử.
Gửi ý kiến của bạn