Hỏi (ông Trần Quân Th.): Tôi đến Úc đã hơn 15 năm. Cách đây chừng 3 năm vì phải về hưu sớm, tôi bèn mở công ty xuất nhập cảng để nhập cảng các đồ phụ tùng xe gắn máy từ Nhật Bản vào Việt Nam.
Công việc suông sẻ, không có gì trở ngại cho đến tháng 3 năm 2002, khi chúng tôi mua một số lượng hàng hóa khá lớn để nhập vào Việt Nam.
Theo hợp đồng thì công ty sản xuất và xuất cảng tại Nhật Bản, sẽ chịu trách nhiệm chuyển giao hàng hóa đến tận bến cảng và lên tàu cho chúng tôi.
Cũng theo hợp đồng, chúng tôi phải trả 2/3 số tổng phí hàng nhập cảng ($48,000), phần còn lại sẽ được thanh toán khi hàng hóa được chuyển giao lên tàu.
Công ty đã chuyển dần các mặt hàng hiện có đến bến cảng và những mặt hàng đang sản xuất sẽ được chuyển đến sau.
Khi chuyển đến bến cảng công ty vẫn giữ các kiện hàng đó trong khu vực đặt dưới quyền kiểm soát và quản lý của công ty, mặc dầu các kiện hàng đều ghi rõ tên công ty của chúng tôi và nơi được chuyển đến là Việt Nam.
Trong lúc chờ đợi toàn bộ các mặt hàng được liệt kê trong đơn đặt hàng được chuyển đến bến cảng, cũng như chuyến tàu được quy định cập bến để bốc hàng thì công ty Nhật Bản đó đã tuyên bố phá sản.
Thế là toàn bộ tài sản của công ty Nhật Bản này, cũng như hàng hóa chờ chuyển về việt nam mà chúng tôi đã đặt mua đã bị đặt dưới sự quản trị của tiếp quản viên. Chúng tôi có xuất trình giấy tờ là đã trả tiền cho số hàng hóa đó cũng như hợp đồng được ký kết giữa công ty Nhật Bản và công ty chúng tôi để yêu cầu số hàng hóa đó được giao trả cho chúng tôi, nhưng nhân viên tiếp quản đã từ chối.
Xin LS cho biết là hành động từ chối đó của nhân viên tiếp quản có vi phạm luật mậu dịch hay không" Số hàng hóa đó mặc dầu nằm trong khu vực kiểm soát và quản lý của công ty Nhật Bản, nhưng thực ra là của chúng tôi, vì chúng tôi đã trả tiền, hơn nữa trên các kiện hàng đó đều có ghi rõ người nhận là công ty của chúng tôi tại Việt Nam. Xin LS cho biết ý kiến.
Trả lời: Theo những gì ông đã trình bày trong thư, tôi có thể cho ông biết được rằng loại hợp đồng mà ông đã ký kết với công ty Nhật bản là loại hợp đồng FOB [Free On Board] “the FOB contract” (hợp đồng bán hàng mà hàng hóa được giao tận tàu [miễn phí]).
Vấn đề được đặt ra và thường đưa đến sự tranh tụng trong các hợp đồng thuộc loại này là vào thời điểm nào thì hàng hóa thực sự được chuyển giao cho người mua"
Theo “luật mậu dịch quốc tế” (the international trade law), đây là loại “hợp đồng bán hàng mà theo đó nghĩa vụ của người bán được thực hiện bằng cách đưa hàng hóa lên tàu để vận chuyển và trả tiền cho phí tổn này. Một khi hàng hóa được đưa lên tàu, thì tài sản và sự rủi ro được chuyển giao cho người mua.” (A contract for the sale of goods under which the seller’s duty is performed by placing the goods on board a ship for carriage and paying for this expense. Once the goods are on board, the property and risk then pass to the buyer).
Trong vụ Carlos Federspiel & Co SA kiện Charles Twigg & Co Ltd. Trong vụ đó, “nguyên đơn [người mua]” đã đặt hàng từ “bị đơn [người bán]” công ty sản xuất xe đạp. Đây là loại “hợp đồng FOB” tại bến cảng Anh Quốc.
“Bị đơn” đã sắp xếp việc chuyên chở bằng tàu và bảo hiểm cho hàng hóa, và “bị đơn” được quyền đòi trả lại những phí tổn này từ “nguyên đơn.”
“Bị đơn” là công ty sản xuất xe đạp và đã đóng thành những kiện hàng có đề tên và địa chỉ của “nguyên đơn” ở trên đó. Nhưng sau đó “bị đơn” đã tuyên bố phá sản trước khi có thể chuyển các kiện hàng này lên tàu.
Theo sau sự phá sản này, viên chức tiếp quản đã được bổ nhiệm để thanh thỏa nợ nần của công ty “bị đơn.”
“Nguyên đơn” bèn cho rằng những kiện hàng đó thuộc về quyền sở hữu của “nguyên đơn” vì chúng đã được để riêng ra theo hợp đồng.
Tuy nhiên, tòa đã cho rằng quyền sở hữu về hàng hóa vẫn chưa được chuyển giao cho “nguyên đơn.” Vì thế, “nguyên đơn” không có quyền đối với các kiện hàng đó.
Thẩm Phán Pearson đã cho rằng sự để riêng hoặc sự tuyển chọn hàng hóa riêng ra với ý định thi hành những điều khoản trong hợp đồng là chưa đủ để cho rằng hàng hóa đó đã thuộc về người mua.
Để có thể cấu thành “sự để riêng hàng hóa ra cho hợp đồng” (an appropriation of the goods to the contract,” các bên đương sự phải có ý định đó và ý định đó phải được thể hiện trong hợp đồng “một cách không thể thay đổi được đối với những hàng hóa đó” (irrevocably to those goods), để những hàng hóa đó, mà không phải những loại hàng hóa khác, là chủ thể của hợp đồng và trở thành tài sản của người mua.
Trong một vài trường hợp đặc biệt, việc người bán để riêng hàng hóa ra với sự đề nghị và đồng ý của người mua có thể cấu thành sự giao hàng thật sự hoặc “sự giao hàng do sự suy đoán, [sự giao hàng mặc nhiên]” (constructive delivery). Vì thế, tuy người bán vẫn còn thủ đắc các hàng hóa đó nhưng đương sự chỉ thủ đắc “với tư cách là người nhận hàng ký gởi để bảo quản cho người mua” (as bailee for the buyer).
Theo điều 20 của “Đạo Luật Mua Bán Hàng Hóa [Anh Quốc]” (the Sales of Goods Act [United Kingdom]) thì “quyền sở hữu và sự rủi ro thường kết hợp với nhau” (the ownership and the risk are normally associated).
Vì thế, chừng nào người bán vẫn còn phải chịu trách nhiệm đối với những sự rủi ro có thể xảy đến cho hàng hóa, thì quyền sở hữu về hàng hóa đó vẫn chưa được nhìn nhận là đã được chuyển giao cho người mua.
Tòa đã cho rằng người bán chịu trách nhiệm về việc sắp xếp để hàng hóa được chuyển lên tàu. Đây là hợp đồng FOB, vì thế hàng hóa vẫn chưa được xem là đã chuyển giao cho người mua cho đến lúc chúng được chuyển lên tàu.
Nguyên tắc căn bản của hợp đồng FOB là quyền sở hữu về hàng hóa vẫn chưa được chuyển giao cho người mua vào lúc ký kết hợp đồng.
Vì thế, việc đóng hàng vào kiện, việc dán nhãn hiệu có đề tên của người mua lên các kiện hàng, cũng như việc để các hàng hóa đó riêng ra một nơi, vẫn chưa đủ yếu tố để cho rằng quyền sở hữu về các hàng hóa đó đã được chuyển giao cho người mua.
Dựa vào “luật mậu dịch quốc tế” cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng theo hợp đồng FOB thì hàng hóa vẫn còn thuộc về quyền sở hữu của người bán cho đến lúc chúng được chuyển giao lên tàu hàng, vì như đã trình bày ở trên thì “quyền sở hữu và sự rủi ro thường kết hợp với nhau” (the ownership and the risk are normally associated).
Trong trường hợp của ông, sự chuyển giao hàng hóa lên tàu vẫn còn là trách nhiệm của công ty bán hàng và họ phải gánh chịu mọi sự rủi ro, nếu có, vì thế quyền sở hữu vẫn chưa được chuyển giao cho công ty của ông.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là lý thuyết, vì điều này còn tùy thuộc vào sự quy định trong hợp đồng mà ông đã ký kết.
Tôi đề nghị, ông nên mang hợp đồng đến gặp Luật Sư của ông để được giải thích và hướng dẫn tường tận hơn.
Công việc suông sẻ, không có gì trở ngại cho đến tháng 3 năm 2002, khi chúng tôi mua một số lượng hàng hóa khá lớn để nhập vào Việt Nam.
Theo hợp đồng thì công ty sản xuất và xuất cảng tại Nhật Bản, sẽ chịu trách nhiệm chuyển giao hàng hóa đến tận bến cảng và lên tàu cho chúng tôi.
Cũng theo hợp đồng, chúng tôi phải trả 2/3 số tổng phí hàng nhập cảng ($48,000), phần còn lại sẽ được thanh toán khi hàng hóa được chuyển giao lên tàu.
Công ty đã chuyển dần các mặt hàng hiện có đến bến cảng và những mặt hàng đang sản xuất sẽ được chuyển đến sau.
Khi chuyển đến bến cảng công ty vẫn giữ các kiện hàng đó trong khu vực đặt dưới quyền kiểm soát và quản lý của công ty, mặc dầu các kiện hàng đều ghi rõ tên công ty của chúng tôi và nơi được chuyển đến là Việt Nam.
Trong lúc chờ đợi toàn bộ các mặt hàng được liệt kê trong đơn đặt hàng được chuyển đến bến cảng, cũng như chuyến tàu được quy định cập bến để bốc hàng thì công ty Nhật Bản đó đã tuyên bố phá sản.
Thế là toàn bộ tài sản của công ty Nhật Bản này, cũng như hàng hóa chờ chuyển về việt nam mà chúng tôi đã đặt mua đã bị đặt dưới sự quản trị của tiếp quản viên. Chúng tôi có xuất trình giấy tờ là đã trả tiền cho số hàng hóa đó cũng như hợp đồng được ký kết giữa công ty Nhật Bản và công ty chúng tôi để yêu cầu số hàng hóa đó được giao trả cho chúng tôi, nhưng nhân viên tiếp quản đã từ chối.
Xin LS cho biết là hành động từ chối đó của nhân viên tiếp quản có vi phạm luật mậu dịch hay không" Số hàng hóa đó mặc dầu nằm trong khu vực kiểm soát và quản lý của công ty Nhật Bản, nhưng thực ra là của chúng tôi, vì chúng tôi đã trả tiền, hơn nữa trên các kiện hàng đó đều có ghi rõ người nhận là công ty của chúng tôi tại Việt Nam. Xin LS cho biết ý kiến.
Trả lời: Theo những gì ông đã trình bày trong thư, tôi có thể cho ông biết được rằng loại hợp đồng mà ông đã ký kết với công ty Nhật bản là loại hợp đồng FOB [Free On Board] “the FOB contract” (hợp đồng bán hàng mà hàng hóa được giao tận tàu [miễn phí]).
Vấn đề được đặt ra và thường đưa đến sự tranh tụng trong các hợp đồng thuộc loại này là vào thời điểm nào thì hàng hóa thực sự được chuyển giao cho người mua"
Theo “luật mậu dịch quốc tế” (the international trade law), đây là loại “hợp đồng bán hàng mà theo đó nghĩa vụ của người bán được thực hiện bằng cách đưa hàng hóa lên tàu để vận chuyển và trả tiền cho phí tổn này. Một khi hàng hóa được đưa lên tàu, thì tài sản và sự rủi ro được chuyển giao cho người mua.” (A contract for the sale of goods under which the seller’s duty is performed by placing the goods on board a ship for carriage and paying for this expense. Once the goods are on board, the property and risk then pass to the buyer).
Trong vụ Carlos Federspiel & Co SA kiện Charles Twigg & Co Ltd. Trong vụ đó, “nguyên đơn [người mua]” đã đặt hàng từ “bị đơn [người bán]” công ty sản xuất xe đạp. Đây là loại “hợp đồng FOB” tại bến cảng Anh Quốc.
“Bị đơn” đã sắp xếp việc chuyên chở bằng tàu và bảo hiểm cho hàng hóa, và “bị đơn” được quyền đòi trả lại những phí tổn này từ “nguyên đơn.”
“Bị đơn” là công ty sản xuất xe đạp và đã đóng thành những kiện hàng có đề tên và địa chỉ của “nguyên đơn” ở trên đó. Nhưng sau đó “bị đơn” đã tuyên bố phá sản trước khi có thể chuyển các kiện hàng này lên tàu.
Theo sau sự phá sản này, viên chức tiếp quản đã được bổ nhiệm để thanh thỏa nợ nần của công ty “bị đơn.”
“Nguyên đơn” bèn cho rằng những kiện hàng đó thuộc về quyền sở hữu của “nguyên đơn” vì chúng đã được để riêng ra theo hợp đồng.
Tuy nhiên, tòa đã cho rằng quyền sở hữu về hàng hóa vẫn chưa được chuyển giao cho “nguyên đơn.” Vì thế, “nguyên đơn” không có quyền đối với các kiện hàng đó.
Thẩm Phán Pearson đã cho rằng sự để riêng hoặc sự tuyển chọn hàng hóa riêng ra với ý định thi hành những điều khoản trong hợp đồng là chưa đủ để cho rằng hàng hóa đó đã thuộc về người mua.
Để có thể cấu thành “sự để riêng hàng hóa ra cho hợp đồng” (an appropriation of the goods to the contract,” các bên đương sự phải có ý định đó và ý định đó phải được thể hiện trong hợp đồng “một cách không thể thay đổi được đối với những hàng hóa đó” (irrevocably to those goods), để những hàng hóa đó, mà không phải những loại hàng hóa khác, là chủ thể của hợp đồng và trở thành tài sản của người mua.
Trong một vài trường hợp đặc biệt, việc người bán để riêng hàng hóa ra với sự đề nghị và đồng ý của người mua có thể cấu thành sự giao hàng thật sự hoặc “sự giao hàng do sự suy đoán, [sự giao hàng mặc nhiên]” (constructive delivery). Vì thế, tuy người bán vẫn còn thủ đắc các hàng hóa đó nhưng đương sự chỉ thủ đắc “với tư cách là người nhận hàng ký gởi để bảo quản cho người mua” (as bailee for the buyer).
Theo điều 20 của “Đạo Luật Mua Bán Hàng Hóa [Anh Quốc]” (the Sales of Goods Act [United Kingdom]) thì “quyền sở hữu và sự rủi ro thường kết hợp với nhau” (the ownership and the risk are normally associated).
Vì thế, chừng nào người bán vẫn còn phải chịu trách nhiệm đối với những sự rủi ro có thể xảy đến cho hàng hóa, thì quyền sở hữu về hàng hóa đó vẫn chưa được nhìn nhận là đã được chuyển giao cho người mua.
Tòa đã cho rằng người bán chịu trách nhiệm về việc sắp xếp để hàng hóa được chuyển lên tàu. Đây là hợp đồng FOB, vì thế hàng hóa vẫn chưa được xem là đã chuyển giao cho người mua cho đến lúc chúng được chuyển lên tàu.
Nguyên tắc căn bản của hợp đồng FOB là quyền sở hữu về hàng hóa vẫn chưa được chuyển giao cho người mua vào lúc ký kết hợp đồng.
Vì thế, việc đóng hàng vào kiện, việc dán nhãn hiệu có đề tên của người mua lên các kiện hàng, cũng như việc để các hàng hóa đó riêng ra một nơi, vẫn chưa đủ yếu tố để cho rằng quyền sở hữu về các hàng hóa đó đã được chuyển giao cho người mua.
Dựa vào “luật mậu dịch quốc tế” cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng theo hợp đồng FOB thì hàng hóa vẫn còn thuộc về quyền sở hữu của người bán cho đến lúc chúng được chuyển giao lên tàu hàng, vì như đã trình bày ở trên thì “quyền sở hữu và sự rủi ro thường kết hợp với nhau” (the ownership and the risk are normally associated).
Trong trường hợp của ông, sự chuyển giao hàng hóa lên tàu vẫn còn là trách nhiệm của công ty bán hàng và họ phải gánh chịu mọi sự rủi ro, nếu có, vì thế quyền sở hữu vẫn chưa được chuyển giao cho công ty của ông.
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là lý thuyết, vì điều này còn tùy thuộc vào sự quy định trong hợp đồng mà ông đã ký kết.
Tôi đề nghị, ông nên mang hợp đồng đến gặp Luật Sư của ông để được giải thích và hướng dẫn tường tận hơn.
Gửi ý kiến của bạn