Cuối tháng 3 năm 2002, truyền thông quốc tế tập trung quay ống kính về hai vùng kỹ nghệ luyện kim Liaoyang và dầu khí Daqing quan trọng nhứt của Trung Cộng. Hàng chục chục ngàn công nhân bị "giảm biên", cho nghỉ việc, thất nghiệp biểu tình rầm rộ, kéo dài nhiều ngày. Biểu tình đòi thu nhận làm việc lại. Nhà cầm quyền CS sở tại, như thường lệ, qui chụp cho đó là "tập họp trái luật." Còn dân chúng đia phương thôâng cảm cho là việc làm chánh đáng, đói phải có cái để ăn.
Sự thật là Thành Phố Liaoyang, niềm hãnh diện của kỹ nghệ luyện kim thời nhảy vọt lên CS chủ nghĩa của Mao, gồm 1 triệu 800 ngàn dân, đang đói tập thể. Các xí nghiệp quốc doanh, một số "giải thể, giảm biên" vì lổ, số khác giải tư vì hết vốn do ngân sách không cấp xuống vì Đảng đổi chính sách sang kinh tế thị trường từ đời Đặng Tiểu Bình. Chính sách đã nâng số công nhân thất nghiệp lên rất cao. Theo Nhà Nước công bố, tỷ lệ thất nghiệp của Trung Cộng là 3,6 năm 2000, tăng lên 4,5% năm 2001. Nhưng con số của Nhà Nước thường nặng tuyên truyền, khác với con số của các chuyên viên tính toán. Tỷ lệ thất nghiệp của Trung Cộng có thể không dưới 15% đến 20% gồm ít nhứt từ 30 đến 40 triệu công nhân mất việc. Thông thường tỷ lệ thất nghiệp của một nước lên đến 6% là kinh tế đã bắt đầu khó khăn.
Tuyệt đại đa số công nhân thất nghiệp đang chống Đảng là những công nhân của các xí nghiệp quốc doanh. Quốc doanh là của Nhà Nước, được "bao cấp" bằng ngân sách rót xuống làm vốn, nên làm ăn theo kiểu lời giả (báo cáo đạët chỉ tiêu, hoàn thành vượt mức kế hoạch), lổ thiệt (che dấu hiệu năng thấp, quản lý kém, kế hoạch chỉ huy cứng rắn của Đảng và lổ). Chính sách mới đổi sang kinh tế thị trường không thể để như vậy được nữa. Đảng và Nhà Nước có muốn bao cấp, khả năng ngân sách cũng không cho phép. Đó chưa nói đến các tổ chức như OPEC, định chế tài chánh quốc tế, như ngân hang thế giới, thúc bách, bó buộc giải tư, thay đổi cơ cấu, qua các điều kiện gia nhập, cấp viện, cấp vốn. Con đường Đổi Mới của CS phải đi qua đoạn giải thể hoặc giải tư quốc doanh, không chống thì chày, không thể khác được với tình hình khả năng ngân sách và với áp lực quốc tế. Con đường giải thể hay giải tư phải qua đoạn giảm biên hay thải hồi cán bộ, công nhân viên, không cách nào khác được. "Đoạn trường ai có qua cầu mơi hay." Chính công nhân quốc doanh là lớp người đoạn trường ấy.
Nhưng những công nhân ấy là những người thuộc "giai cấp tiên phong cách mạng" của Đảng, đã từng tạo nên cơ đồ cho Đảng trước cả nông dân. Những công nhân công thần này thấy mình quá bị bạc đãi. Quen tính đấu tranh, lại bị mất chén cơm "tiêu chuẩn", mất chế độ ưu đãi, không cần ai xúi cũng làm, là phản ứng chống đối Đảng. Lập luận buộc tội Đảng là phản bội giai cấp, thoả hiệp với Tư bản. Hành động là từ ý kiến, kiến nghị, đến biễu tình ôn hoà và có thể tiến lên bạo động cũng nên. Mức độ có tăng chớ không giảm. Đó là lý do Đảng tránh né áp lực ngoại quốc, kéo dài kế hoạch giải tư, giải thể quốc doanh. Đảng lo sợ sự chống đối có tính cơ cấu ấy nên kéo dài, hy vọng không bao lâu những công nhân công thần của chế độ sẽ về hưu.
Nhưng thời gian và đà phát triễn của xã hội đổi mới và kinh tế thi trường không chờ đợi Đảng. Tin Học đã chuyên chở với tốc độ ánh sáng những lý tưởng tự do dân chủ, nhân quyền vào tận hang cùng ngỏ hẻm; bức màn CS không đủ sức cản trở. Kinh tế thị trường thúc đẩy phong trào đô thị hoá và hình thành lớp trung lưu. Thanh niên nông thôn tràn vào thành thị, cạnh tranh với công nhân công thầân. Công xá rẻ, phúc lợi lao động thấp của số công nhân mới này biến lớp trẻ đô thị hoá thành nguồn nhân lực các xí nghiệp dựa vào nhiều hơn là lớp công nhân già và mắc. Có kinh tế thị trường là có tích lũy tư bản - dùø hạn chế - là có lớp người trung lưu sinh sôi, nẩy nở. Trung lưu trong thời CS Đổi Mới phát triễn nhanh và mạnh đến múc Đảng phải dựa vào họ để phát triễn kinh tế, thiếu không được. Đó là lý do tại sao Đảng chẳng những thoả hiệp với tiểu tư sản vốn là kẻ thù trước đây mà bây giờ Đảng còn đưa tư sản vào Đảng. Lại thêm lý do để công nhân công thần của Đảng kết tội Đảng phản bội giai cấp và lấy đó làm chánh nghĩa chống Đảng.
Vấn đề công nhân chống Đảng là vấn đề lớn. Đảng không thể trấn áp được vì là vấn đề cơ cấu chánh trị của Đảng. Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan ban đầu chỉ đình công, yêu sách ở một xí nghiệp, rồi lan dân ra vùng, sau cùng phủ khắp nước, làm bộ máy kềm kẹp của Đảng bất lực. Quân đội ban đầu trung lập và dần dần quay về với nhân dân, bóp nát nhà cầm quyền CS. Xem như ở nước nhà, các cuộc biễu tình của các công nhân các xí nghiệp liên doanh, đang lan dần qua quốc doanh. Đề tài chống trả lương trễ, thấp, không giờ phụ trội, tiến đến chống thái độ bất công và vi phạm chế độ lao động của chủ. Có ai dám chắc là sẽ không tiến đến biễu tình chánh trị.