Danh Xưng
Như qúy độc giả đã thấy, danh xưng của HPNVNLB không hề có 2 chữ "Tự Do". Tại sao vậy" Bình thường, việc có hay không có 2 chữ "Tự Do" đối với danh xưng một hội đoàn, một đoàn thể không phải là việc quan trọng. Nhưng nếu tiền thân của hội phụ nữ liên bang là hội phụ nữ ở các tiểu bang có hai chữ "Tự Do" thì tại sao, khi thành lập hội phụ nữ liên bang, lại có những thế lực vận động bỏ hai chữ "Tự Do" trong danh xưng của hội" Theo lời của một vài chị em am tường, việc bỏ 2 chữ "Tự Do" trong danh xưng của hội phụ nữ liên bang đã tạo nên những cuộc tranh luận dữ dội. Điều này cho thấy, việc quyết định không dùng 2 chữ "Tự Do" của qúy hội không phải thuần túy vì muốn ngắn gọn, hay tiết kiệm giấy mực, như một số người tuyên bố. Vậy thì ai trong qúy hội đã ghét bỏ hay chữ "Tự Do"" Và vì sao qúy vị lại ghét hai chữ đó" Lý lẽ nào, thế lực nào trong qúy hội đủ mạnh đến độ hai chữ đó bị loại khỏi danh xưng của qúy hội"
Phi Chính Trị
Trong dịp nói chuyện với bà Đặng Kim Ngọc gần đây, tôi rất ngạc nhiên khi được bà cho biết, HPVNLB là một tổ chức phi chính trị. Điều này có nghĩa, HPNVNLB không hề quan tâm đến những việc như đấu tranh cho tự do dân chủ ở quê nhà; phản đối những hành động, chính sách bách hại tôn giáo, chà đạp nhân quyền của chính quyền cộng sản; bảo vệ lập trường và chính nghĩa của người Việt tỵ nạn cộng sản… Thực tế cho thấy trước những việc làm chính đáng và hợp lý của các tổ chức đấu tranh chính trị, các hội đoàn, đoàn thể, cũng như của CĐNVTD liên bang, tiểu bang, HPNVNLB đều bất hợp tác, hoặc hợp tác một cách chiếu lệ. Thậm chí ngay cả những việc làm thuần túy xã hội do CĐNVTD tổ chức như dọn dẹp vệ sinh trong ngày Clean Up Australia, qúy hội cũng không hề tích cực tham gia. Trong các văn bản, diễn văn, đáp từ được HPN sử dụng, rất hiếm khi thấy qúy vị đề cập đến 4 chữ "tỵ nạn cộng sản", mặc dù đây chính là bản sắc chính thống của đại đa số phụ nữ VN tại Úc mà qúy vị đại diện.
Bằng chứng gần gũi và cụ thể nhất chứng tỏ HPNVNLB thiếu trách nhiệm đối với những đau thương của đất nước, là bản chương trình đại hội kéo dài 2 ngày vào 26 và 27 tháng 4. Trong khi ở Việt Nam, mấy năm qua, hàng loạt sự kiện xảy ra, nào là tôn giáo bị đàn áp, các vị linh mục, sư sãi bị cầm tù, bị quản thúc, đất nước thì bị chính quyền CS cắt bán cho ngoại bang, hàng chục ngàn phụ nữ VN bị CS bắt phải bán thân, bán sức lao động cho ngoại quốc, hoặc đi ở đợ, hoặc bị mua bán như nô lệ, thì ở đây, HPNVNLB với một loạt những vị phụ nữ khoa bảng, tham dự hai ngày đại hội cho một đại hội 2 năm mới tổ chức một lần, trong đó có cả chục bài diễn văn, tham luận, thảo luận cả chục vấn đề, nhưng tuyệt nhiên không có một vấn đề nào, một đề tài nào liên quan đến những vấn nạn những bi kịch mà dân tộc Việt Nam, trong đó có phụ nữ Việt Nam đang gánh chịu. Đồng ý, những vấn đề được nêu trong chương trình đại hội, không phải là không quan trọng đối với phụ nữ Việt Nam tại Úc. Nhưng bên cạnh đó, qúy vị không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những vấn đề quan trọng khác có liên quan đến đất nước, đến lập trường chính trị của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn CS. Qúy vị phải đồng ý, HPNVNLB là một tổ chức đại diện cho phụ nữ Việt Nam tại Úc, trong đó có tới 99% là tỵ nạn cộng sản. Như vậy, bản sắc chính trị là nguyện vọng chung của đại đa số phụ nữ Việt Nam tại Úc, và đó là điều bắt buộc qúy hội phải có. Thiếu nó, mọi hành động vỗ ngực tự xưng là đại diện cho phụ nữ Việt Nam tại Úc đều là tiếm danh và bất xứng.
Thú thật tôi không hiểu tại sao qúy vị lãnh đạo hội đều là những phụ nữ Việt Nam tỵ nạn CS, thường xuyên tổ chức lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, coi Hai Bà là hình ảnh lý tưởng để qúy vị noi theo, vậy mà trong thực tế, qúy vị lại khăng khăng một mực muốn biến HPNVNLB trở thành một tổ chức phi chính trị, thờ ơ đứng bên lề mọi thăng trầm của đất nước, đau thương của dân tộc"
HPNVNLB là một tổ chức có tầm vóc, quy tụ nhiều nhân tài, và có tiếng nói nhất định đối với chính giới. Tuy nhiên, khuynh hướng phi chính trị đã dần dần biến nó thành một tổ chức an sinh xã hội thuần túy, không còn đóng vai trò quan trọng trong chính giới Úc cũng như trong tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn CS. Vô hình chung, đây là mục tiêu cộng sản đang cố gắng thực hiện bằng mọi cách.
Không Chào Quốc Kỳ
Qua trò chuyện với bà Đặng Kim Ngọc, tôi được biết, trong kỳ đại hội lần này của HPNVNLB, sẽ không có lễ chào quốc kỳ Việt Nam mà chỉ chào quốc kỳ Úc. Nghe vậy, tôi rất ngạc nhiên. Theo lời bà Đặng Kim Ngọc thì qúy vị trong hội cho biết, nghi lễ của Úc (tức protocol, nguyên văn lời bà Ngọc) khi có sự hiện diện của vị toàn quyền, ta không được chào cờ VN. Chuyện này hiện tôi không biết thực hư như thế nào, nhưng nếu qúy vị trong hội đã nói, dù có đúng đi nữa, thì trên phương diện ngoại giao, thêm vào đó, Úc lại là quốc gia đa văn hóa, đa chủng tộc, nhất là cộng đồng người Việt là một cộng đồng tỵ nạn chính trị, tôi thiết tưởng việc chào cờ hai quốc gia Úc, Việt là điều vẫn có thể thực hiện. Còn nếu như có chính trị gia nào, kể cả toàn quyền Úc, từ chối không cho chúng ta ta chào cờ, tốt nhất ta nên thẳng thắn và nhã nhặn bầy tỏ quan điểm trước sau như một của mình, còn quyền đến hay không là quyền của họ. Làm như vậy, dù họ có đến hay không, họ sẽ tôn trọng chúng ta hơn.
Giữa lúc chúng tôi đang bàn tán về việc làm của hội phụ nữ thì bỗng nhiên, tối Thứ Sáu, 19/4, trong bữa tiệc gây qũy trang trải phí tổn thuê xe đi biểu tình, có vị trong cộng đồng cho biết, bà Anh Thư nói ngày khai mạc đại hội sẽ có chào cờ Việt Nam và hát quốc ca, nhưng chỉ hát quốc ca một đoạn mà thôi. Qua lời tuyên bố của bà Anh Thư, "có chào nhưng chỉ hát quốc ca một đoạn", tôi thấy chúng ta có quyền nghi ngờ, "ý định không chào cờ Việt Nam" là một âm mưu của ban tổ chức đại hội phụ nữ, chứ không phải vì "protocol" của Úc như bà Ngọc đã nói. Lý do là nếu quả thực nghi lễ đã quy định không chào cờ VN, và ban tổ chức có cố gắng thuyết phục quan khách Úc, thì chỉ có hai kết quả có thể đạt được là: hoặc có chào hoặc không chào, chứ tuyệt nhiên, quan khách Úc không bao giờ đòi điều kiện "cho chào cờ VN nhưng chỉ được hát quốc ca một nửa" như lời bà Anh Thư đã nói.
Một điểm nữa tôi xin được nêu ở đây là một vị phụ nữ trong cộng đồng có nêu với bà Anh Thư về nghi lễ mặc niệm trong lễ khai mạc, thì bà Anh Thư trả lời, để bà còn hỏi xem thế nào. Điều này lại càng chứng tỏ, qúy vị trong ban tổ chức đại hội đã không hề quan tâm đến nghi lễ chào cờ, hát quốc ca và mặc niệm. Vì nếu họ quan tâm, một khi gặp khó khăn (giả sử là có khó khăn vì protocol như lời bà Ngọc nói) thì từ lâu họ đã bàn bạc và vận động để Úc cho thực hiện tất cả những nghi lễ đó. Qúy độc giả nên nhớ, theo lời bà Ngọc, đại hội kỳ của phụ nữ đã được HPNVNLB chuẩn bị từ 2 năm trước. Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây, tại sao suốt 2 năm trời mà đến phút chót, những nghi lễ quan trọng như thế mới được đưa ra tranh cãi" Và nếu quả thực, "ý định không chào cờ, không hát quốc ca, không mặc niệm" là một âm mưu của ban tổ chức, thì tại sao ban tổ chức lại có âm mưu đó" Chẳng lẽ qúy vị muốn tiết kiệm thời gian" Nếu vậy, xin hỏi, đại hội kéo dài 2 ngày mà phải rút ngắn bài quốc ca VN khoảng vài chục giây hay sao" Viện cớ như vậy quả thực vừa phi lý, vừa coi thường dư luận!
Xa lánh thực tế
Trong thời gian gần đây, Việt Nam, Úc, cũng như thế giới đã xảy ra rất nhiều biến cố đòi hỏi thái độ và tinh thần trách nhiệm của người phụ nữ tỵ nạn CSVN tại Úc cũng như HPNVNLB. Nhìn vào hàng ngũ lãnh đạo cũng như những người đóng góp công sức, trí tuệ, lèo lái HPNVNLB, ta thấy có nhiều nhân vật khoa bảng. Đại đa số, qúy vị đó cũng là những người Việt tỵ nạn cộng sản. Đã là người phụ nữ VN tỵ nạn CS, lại là những người khoa bảng, chấp nhận tham gia lãnh đạo HPNVNLB hoặc đóng góp cho hội, qúy vị đó không thể không lên tiếng trước những sự kiện quan trọng xảy ra tại Việt Nam như CSVN xuất cảng phụ nữ ra ngoại quốc làm nô lệ, đài truyền hình SBS chiếu phim tài liệu "Combat Women" công khai tuyên truyền cho nữ cán binh cộng sản đúng dịp kỷ niệm Quốc Tế Phụ Nữ 8/3. Ngoài ra, việc trung tâm WJC của Massachusetts Boston, Hoa Kỳ thuê mướn 2 cán bộ CS và việc ông Nguyễn Hữu Luyện sang Úc tìm sự hậu thuẫn của cộng đồng người Việt tại đây, cũng là những việc làm đòi hỏi sự ủng hộ từ những phụ nữ khoa bảng trong cộng đồng người Việt tại Úc.
Thái độ thờ ơ và sự im lặng của qúy vị, cho dù trong cộng đồng, có nhiều vị đã thúc dục, đã cung cấp tài liệu cho qúy vị, đã khiến nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ thiện chí của qúy vị khi qúy vị "dấn thân" tham gia HPNVNLB. Có một cái gì đó, thiếu thống nhất trong con người qúy vị.
Về Việt Nam
Tôi được biết, trong số những vị lãnh đạo HPNVNLB cũng như những người có những đóng góp quan trọng chìm nổi đối với qúy hội, nhiều người mặc dù mang danh nghĩa tỵ nạn CS, nhưng đã về VN, và về nhiều lần. Vấn đề về VN thăm thân nhân, hay làm ăn nói chung, không phải là điều nghiêm trọng đáng để cho chúng ta tranh luận trên báo. Nhưng nếu có những người về VN nhiều lần, về VN làm ăn với CS, rồi những người đó lại nắm giữ những chức vụ trọng yếu trong HPNVNLB, để rồi lèo lái quyết gạt hai chữ "tự do" ra khỏi danh xưng của hội, rồi tìm cách biến hội trở thành một tổ chức phi chính trị, thờ ơ trước mọi sinh hoạt của cộng đồng; rồi khôn ngoan thao túng hội để tổ chức đại hội vào đúng dịp kỷ niệm 30/4; rồi âm mưu không cho chào cờ, không cho hát quốc ca trong lễ khai mạc… thì bắt buộc, mọi người Việt tỵ nạn cộng sản phải nghi ngờ lập trường chính trị của những người đó…
Nhất là qua những câu nói không hợp tình hợp lý của bà Anh Thư đã khiến tôi không thể không nhớ, bà là người về Việt Nam nhiều lần, bà lại là phu nhân của thầy Trịnh Nhật, người cũng về VN nhiều lần, và từng viết bài "Kiếp sau xin chớ làm người", cổ súy cho đường lối hòa hợp hòa giải với cộng sản, mà tôi đã chỉ trích cách đây mấy năm.
Đồng ý, sống trong xã hội tự do dân chủ, nam nữ bình quyền như Úc, quan điểm của chồng đã chắc gì được vợ chia xẻ. Nhưng điều đó không có nghĩa, quan điểm của chồng vĩnh viễn không bao giờ là quan điểm của vợ. Nhất là khi quan điểm đó lại là quan điểm chính trị, tạo nên nhiều mâu thuẫn sóng gió trong dư luận. Nếu không đồng thuận, thì hai người khó có thể sống chung về lâu về dài. Nhìn vào những việc làm và câu nói của bà Anh Thư, tôi thành tâm tin tưởng, có lẽ bà đã phần nào đồng quan điểm với thầy Trịnh Nhật.
Thông Báo của Hội Phụ Nữ
Theo lời bà Đặng Kim Ngọc, qúy hội đã chọn ngày đại hội từ 2 năm trước. Vậy mà không hiểu sao, qúy hội lại có thể sơ sót chọn đúng dịp kỷ niệm 30-4" Nói cách khác, sơ sót chọn ngày đại hội đã kéo dài suốt 2 năm trời mà qúy vị không nhận ra, thì quả là lạ" Nhất là trong qúy hội thấy toàn những người có bằng cấp, có trình độ, thì sơ sót đó quả là khó có thể chấp nhận. Đã vậy, ngày đại hội là 26 & 27 tháng 4, nhưng đến ngày 20 tháng 4, báo Sàigòn Times vẫn không nhận được bất cứ thông báo nào của qúy hội liên quan đến đại hội. Đây là một điều lạ. Điều lạ nữa là đột nhiên, nội trong ngày Chủ Nhật vừa rồi, 21/4, Sàigòn Times (cũng như hầu hết các báo chí Việt ngữ) nhận được liên tục 4 email gửi đi từ địa chỉ bà Anh Thư và một bản thông báo gửi qua fax, từ nhà thầy Trịnh Nhật. Tất cả đều có nội dung tương tự, yêu cầu báo chí phổ biến "Thông Báo" của Hội Phụ Nữ Liên Bang về 2 ngày đại hội. Dưới thông cáo ký tên bà Đặng Kim Ngọc, chủ tịch hội.
Phần nhận thấy quá trễ, khi báo Sàigòn Times phát hành là 25/4, chỉ một ngày trước ngày đại hội 26/4; phần thấy trong chương trình của qúy hội ghi rõ, hạn chót ghi danh 15/4; và nhất là Sàigòn Times đã minh bạch thái độ, không tán thành việc qúy hội tổ chức đại hội vào 2 ngày trên, nên Sàigòn Times quyết định không đăng tải bản thông báo đó.
Sàigòn Times cũng tha thiết kêu gọi qúy vị trong cộng đồng, qúy bà qúy cô, cùng toàn thể qúy độc giả, hãy mạnh dạn bầy tỏ thái độ bằng cách không tham gia đại hội của HPNVNLB. Xin qúy vị hãy nhớ lại, trong những ngày này của 27 năm về trước, đất nước Việt Nam, trong đó có chính gia đình, bằng hữu và bản thân chúng ta, đang trải qua những giờ phút kinh hoàng, tử biệt sinh ly trước làn sóng xâm lăng của cộng sản. Bao nhiêu thảm cảnh máu và nước mắt đã xảy ra trên đất nước VN cách đây 27 năm và trong suốt 27 năm qua. Suốt 27 năm qua, mỗi khi bước vào tháng 4, người Việt Nam đều đau lòng nhớ lại những mất mát, khổ đau của cả một dân tộc, trong đó có chính gia đình chúng ta; Suốt 27 năm qua, đông đảo người Việt tỵ nạn cộng sản đã tổ chức tưởng niệm 30 tháng 4 dưới nhiều hình thức, trong đó có tham dự cuộc biểu tình trước tòa đại sứ CS tại Canberra; Và năm nay, trong khi các hội đoàn, đoàn thể, cùng đông đảo bà con cô bác đang tất bật ngược xuôi, chuẩn bị cờ, khẩu hiệu, thuê mướn xe cộ để lo biểu tình; trong khi các em học sinh, sinh viên ở các tiểu bang đang đổ về Canberra vào tối Thứ Bảy, 27 tháng 4, để đốt nến tưởng niệm;… thì chúng ta không có lý do gì và không nỡ lòng nào lại đi tham dự một cuộc đại hội của một tổ chức bề ngoài mang danh người tỵ nạn, nhưng lại công khai hô hào phi chính trị, ngoảnh lưng lại những đau thương của dân tộc, bất hợp tác với cộng đồng, nhất là khi ban tổ chức đại hội lại có những toan tính, không chào cờ, không hát quốc ca, không mặc niệm, hoặc chỉ làm lấy lệ, làm cho gọi là có.
KẾT LUẬN
Khi viết bài này, tôi tuyệt nhiên không có ý xúc phạm đến bất cứ vị nào trong HPNVNLB. Ngay cả bà Đặng Kim Ngọc, đương kim chủ tịch hội, tôi cũng luôn luôn dành cho bà lòng qúy trọng đặc biệt. Tôi nhận thấy bà là một trong số rất ít những người phụ nữ Việt Nam bền bỉ theo đuổi hoạt động chính trị, đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do dân chủ, vĩnh viễn không còn bóng dáng CS. Tôi càng qúy bà khi thấy trong hoàn cảnh góa bụa, bà vẫn tiếp tục theo đuổi còn đường chính trị mà Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã vạch ra, thường xuyên hiện diện trong các sinh hoạt chính trị cũng như xã hội của cộng đồng. Tuy có những dị biệt về hình thức và phương pháp đấu tranh chống cộng sản, bà không bao giờ cực đoan, luôn luôn tôn trọng và lắng nghe mọi dị biệt. Qua trò chuyện với bà, tôi cũng biết, bà có nhiều điểm dị biệt về lập trường, quan điểm với các vị trong ban chấp hành HPNVNLB, và càng ngày xem ra bà càng khó đứng vững trước những thao túng của những người khác. Vì vậy, tôi thành tâm hy vọng, qúy vị nào trong ban chấp hành hội phụ nữ còn là những phụ nữ tỵ nạn CS, xin hãy đón nhận bài viết của tôi như đón nhận một lời tâm sự, và hãy tha thứ cho tôi, nếu tôi đã xúc phạm.
Hữu Nguyên