Ông Dương rằng thị trường dịch vụ của Mỹ là “rất mở”, bởi vậy điều gì Mỹ cam kết trong WTO thì đều cam kết với Việt Nam. Còn đối với Việt Nam, dẫn thông tin từ một cuộc điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, ông Dương nói rằng: “Trình độ phát triển về dịch vụ của VN thấp hơn cả mức thấp mà người ta đã nhận định" Giá cao, công nghệ kém, môi trường chưa thông thoáng, khung pháp lý chưa có, tình trạng độc quyền còn phổ biến, xu hướng tự cung tự cấp là những đặc điểm phổ biến của thị trường dịch vụ ở Việt Nam. Và VN đã cam kết mở cửa các lĩnh vực cụ thể sau đây: dịch vụ kinh doanh (bao gồm dịch vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán, quảng cáo...), thông tin liên lạc, xây dựng, phân phối, giáo dục, tài chính - ngân hàng, y tế và du lịch.
Nhưng mở cửa những thị trường này không thể không có lộ trình. Chẳng hạn, đối với dịch vụ quảng cáo, phía Mỹ có thể liên doanh với các đối tác Việt Nam để kinh doanh với tỷ lệ vốn mà họ góp không vượt quá 49% vốn pháp định, sau 5 năm (kể từ khi Hiệp định có hiệu lực) hạn chế này sẽ là 51% và sau 7 năm sẽ không còn hạn chế. Đối với dịch vụ viễn thông, sau 2 năm (riêng đối với Internet là 3 năm), phía Mỹ được phép liên doanh với Việt Nam để kinh doanh dịch vụ viễn thông trị giá gia tăng với tỷ lệ phần vốn của Mỹ không quá 50% vốn pháp định (các liên doanh không được phép xây dựng mạng đường trục riêng); sau 4 năm Mỹ được liên doanh với Việt Nam kinh doanh các dịch vụ viễn thông cơ bản với tỉ lệ vốn của Mỹ không quá 49% vốn pháp định; sau 6 năm, Mỹ được liên doanh với đối tác Việt Nam kinh doanh dịch vụ điện thoại cố định với tỷ lệ góp vốn không quá 49%.
Về nghe nhìn (visual-audio), Mỹ sẽ được liên doanh làm các dịch vụ sản xuất, phân phối phim và dịch vụ chiếu phim với tỷ lệ vốn của Mỹ không vượt quá 49% vốn pháp định và hạn chế này sẽ là 51% (sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực).
Đối với dịch vụ giáo dục, sau 7 năm, được thành lập các trường 100% vốn của Mỹ (trong các ngành kỹ thuật khoa học tự nhiên và công nghệ).
Về dịch vụ bảo hiểm, sau 3 năm Mỹ được liên doanh không quá 50% vốn pháp định và sau 5 năm sẽ được thành lập công ty 100% vốn của Mỹ (không được kinh doanh đại lý bảo hiểm và kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc).
Trong lĩnh vực ngân hàng, trong vòng 9 năm, các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó phần vốn của Mỹ không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định; sau 9 năm, Mỹ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn của Mỹ tại Việt Nam…
Ông Dương nói, có khoảng 60 nhóm dịch vụ đã được Việt Nam cam kết tự do hóa với mức độ thấp hơn và lộ trình dài hơn sự cam kết của các nước khác.
Các báo quốc nội cũng đã dẫn lời của Nguyễn Đình Lương, trưởng đoàn CSVN đàm phán Hiệp định. Ông Nguyễn Đình Lương nhận định rằng đã “đủ để cho các doanh nghiệp chuẩn bị rồi”. Ông Lương khẳng định rằng quan điểm của đảng CSVN là “chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế”, rằng với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, VN đã “chơi” luật của WTO. Ông Lương nhắc nhở: Từ nay, các ngành nếu có ra luật lệ gì thì nên liếc nhìn cho khớp, không nên sinh ra cái gì “trái cựa.”
Người ta không nghe các cán bộ này nói gì về biện pháp chế tài, mỗi khi có đối tác nào vi phạm.