Tủ tiền của nhà nước CSVN không thể nào cung cấp đủ vốn để theo kịp với các nhu cầu vẫn gia tăng để có một hạ tầng cơ sở khá hơn như viễn thông, giao thông, nước và điện. Kết quả là chính quyền CSVN đang có kế hoạch cho tái cấu trúc các công ty lớn của nhà nước thành những đơn vị nhỏ hơn, giảm bớt tính chất độc quyền và tạo thêm cơ hội cạnh tranh để lấn vào khu vực tư nhân. Vì các lãnh vực này cần có sự nhúng tay của nhà nước hay những chủ chốt độc quyền, nên việc kiểm soát chặt chẽ hơn nữa sẽ được nhà nước cộng sản đưa ra.
Hiện nay, các xí nghiệp tư chỉ được phép tham gia xây dựng hạ tầng cơ sở tại Việt Nam. Có một số lãnh vực cần đầu tư lớn và việc kinh doanh cần phải thận trọng đối với nhà nước CS, không nên bỏ vốn ra quá nhiều. Trong lãnh vực khác như vận chuyển, cung cấp nước và viễn thông, nhà nước nắm phần lớn, vốn và các hoạt động của các lãnh vực này đang bị các cán bộ và công nhân viên nhà nước lạm dụng. Việc này khiến cho các tư nhân đầu tư đã phải thận trọng, họ thích kinh doanh không bị khống chế và cạnh tranh tự do.
Mặc dầu có một số giới hạn các nhà thầu xây cất và công ty phát triển hạ tầng cơ sở, hạ tầng cơ sở của Việt Nam thu hút được trên 20% tổng số vốn đầu tư mỗi năm. Trong tiến trình “đổi mới”, hạ tầng cơ sở đã tiến hành nhanh, có nhiều lãnh vực tiến bộ đáng chú ý. Khoảng giữa năm ngoái, hệ thống đường xá VN đã đạt 18,6km cho 100 cây số vuông, bằng con số của những quốc gia khác tại vùng Đông Nam Á. Mạng luới đường xe lửa chiếm 0,8km cho 100 cây số vuông, một tỷ số cao nhất trong vùng.
Ngoài ra, kỹ thuật về đầu máy xe lửa, tiêu chuẩn tu bổ và tài quản lý đã thấy có khả quan. Các hải cảng được xây để mở rộng. Các hải cảng như Hải Phòng, Tiên Sa, Dung Quất, Qui Nhơn và Nha Trang, cũng như các cảng Saigon đang được nâng cấp. Việt Nam có khoảng 20 phi cảng, nhưng chỉ có 4 điện thoại cho 100 nguời dân.
Việt Nam có đủ các dạng dự án về thủy điện và nhiệt điện, các dự án điện này mới đây đã cho hòa vào mạng tải. Trong số dự án điện năng có các dự án như thác Hoà Bình tại miền Bắc, thác Trị An tại Miền Nam, Thác Mô, Vĩnh Sơn, Sông Phà, Phả Lại, Bà Rịa-Vũng Tầu, Phú Mỹ và Thủ Đức. Các dự án điện tại miền Nam trước đây là các dự án của chế độ cũ đã bị cộng sản Bắc Việt cho du kích phá hoại khiến phải đình lại. Hàng ngàn cây số đường điện được nối vào mạng luới tải điện của quốc gia.
Về hệ thống cung cấp nước sạch cũng đã được nâng cấp và cho bành trướng tại các thành thị lớn và nhiều vùng quê. Nhưng nước cung cấp không được xử lý cho sạch, nên các du khách nước ngoài thường vị mắc phải bịnh tiêu chẩy hay ói mửa mặc dầu nước đã được đun sôi. Trong bốn thành phố lớn như Hanoi, Hải Phòng, Đà Nẵng và Saigon, dân chúng có thể được dùng 100-120 lít nước mội ngày, đạt được 70-85% nhu cầu. Tại thôn quê chỉ có khoảng 32% được hưởng tiện ích nước máy dùng hàng ngày dưới sự kiểm soát của các chủ tịch địa phương.
Việt Nam chi ra khoảng 5 tỷ Mỹ kim hàng năm để phát triển hạ tầng cơ sở, một số tiền làm đẹp, nhưng không đủ để thoả mãn những nhu cầu cho nền kinh tế đang tăng trưởng và lợi tức của dân chúng đang đi lên. Một số công kỹ nghệ đã được tái cấu trúc cho phép tư nhân được góp phần thêm để cạnh tranh hơn nữa.
Về viễn thông, công ty bưu chính và viễn thông của nhà nước đã để cho các công ty kinh doanh điện thoại khác nằm trong lãnh vực quân đội, nhà đèn và hỏa xa xử dụng hạ tầng cơ sở của ngành này.
Theo kế hoạch CSVN, các hãng quốc doanh ưu thế có thể được tách ra thành nhiều phần. Như công ty chuyên về thiết kế, công ty chuyên về xây đường và công ty chuyên về tu bổ hạ tầng cơ sở, các công ty này đều nằm dưới ô dù công ty mẹ, nhà cung cấp dịch vụ độc quyền do đảng CSVN kiểm soát.
Nhưng hoạch định này kể tất cả các biện pháp đã đưa ra không thể nào có được một sân chơi bình đẳng và công bằng đối với các tư nhân đầu tư một khi những người cộng sản ăn chia với nhau để cho kinh doanh.