Hỏi (Bà Trần Bích Ph): Chúng tôi kết hôn tại Việt Nam. Vào năm 1987, chồng tôi vượt biên và đã được đi định cư tại Úc vào năm 1991. Tôi và 3 cháu đã được bảo lãnh đến Úc vào năm 1993. Vào năm 1999, chúng tôi cùng đứng tên mua chung một căn nhà. Sau đó vào năm 2000, chồng tôi về Việt Nam thăm gia đình. Khi trở lại Úc, tình cảm của anh ta hoàn toàn thay đổi. Vì thế, vào đầu năm 2001, anh ta đã dọn ra sống riêng, và chúng tôi chính thức ly thân từ đó.
Từ ngày đến Úc tôi chỉ làm cho lò bánh mì 2 ngày một tuần, và những ngày khác thì nhận đồ may thêm, còn chồng tôi thì làm việc toàn thời tại hãng bán đồ điện. Khi dọn ra ở riêng, chồng tôi đã xin nghỉ việc và lãnh được một số tiền mà tôi không rõ là bao nhiêu, và cũng có lẽ nhờ số tiền này mà ông ta đã sang được một nhà hàng nhỏ. Vào cuối năm 2003, ông ta mua thêm một căn appartment.
Giờ đây ông ta muốn thương lượng để chia tài sản. Ông ta đề nghị là tôi đưa cho ông ta $50,000 và ông ta sẽ sang tên căn nhà mà hiện giờ mẹ con chúng tôi đang sống cho tôi.
Căn nhà này hiện thời trị giá chừng $380,000 nhưng vẫn còn thiếu ngân hàng khoảng $150,000.
Riêng căn appartment của ông ta cũng ngang giá với căn nhà mà tôi đang ở. Tuy nhiên ông ta còn thiếu chừng $120,000. Còn nhà hàng của ông ta, theo bạn bè của tôi cho biết thì trị giá chừng $80,000.
Hiện tôi vẫn chưa đồng ý với đề nghị này. Tuy nhiên, ông ta đã giải thích cho tôi biết là những tài sản ông ta mua được sau khi ly thân là của ông ta, tôi hoàn toàn không có quyền lợi gì trong đó cả. Ông ta còn nói với tôi, việc ông ta chỉ đòi tôi trả $50,000 là một sự nhượng bộ đối với tôi rồi.
Xin LS cho biết là với những chi tiết vừa nêu, tôi có nên chấp nhận những đề nghị của ông ta đưa ra hay không"
Trả lời: Trong vụ I & I [2005] Fam CA 433. Trong vụ đó, hai bên đương sự bắt đầu sống chung với nhau vào năm 1984, rồi sau đó họ đã kết hôn vào tháng 9 năm 1984.
Họ có với nhau hai đứa con, một đứa sinh vào năm 1989 và đứa kia sinh vào năm 1991.
Họ ly thân vào năm 1995, và ly dị vào năm 1998.
Vào ngày 6 tháng 10 năm 2003, Thẩm Phán Carmody đã cho phép người vợ tiến hành thủ tục xin chia tài sản.
Hai vợ chồng cùng làm nghề giáo, và vì người vợ phải bận rộn chăm sóc hai đứa con nên thỉnh thoảng bà ta đã phải bỏ việc trong một thời gian. Rồi bà ta phải xin làm việc theo hợp đồng. Riêng người chồng thì vẫn làm việc toàn thời đồng thời đã ghi danh học thêm và đã lấy thêm được bằng cấp trong lãnh vực tâm lý học.
Sau khi ly thân, người chồng đã mua một căn nhà khác nhờ vào số tiền $65,000 do cha mẹ của ông ta cho mượn mà không lấy tiền lời, số còn lại người chồng phải mượn ngân hàng.
Vào năm 2002, người chồng tự nguyện nghỉ việc và lãnh được một số tiền là $53,000. Thoạt tiên ông ta trả số tiền này cho ngân hàng để giảm bớt số nợ phải trả hàng tháng cho ngân hàng. Nhưng sau đó vì bị thất nghiệp nên ông đã rút gần hết số tiền đó ra.
Người chồng trả tiền cấp dưỡng đề đặn cho hai đứa nhỏ từ ngày ly thân cho đến ngày xét xử để phân chia tài sản mỗi tháng là $250, đồng thời ông ta cũng phụ để trả tiền học phí cho hai đứa con. Tuy nhiên, người vợ vẫn là người phải trả hầu hết phí tổn cho hai đứa nhỏ.
Tổng lượng thời gian mà người chồng được phép thăm hai đứa nhỏ bằng 1/3 thời gian của người vợ nuôi dưỡng chúng.
Vào lúc xét xử, trị giá căn nhà của người chồng mua $153,000 vào năm 1997, sau khi họ ly thân, đã lên đến $360,000.
Trong lúc đó căn nhà mà hai vợ chồng tậu mãi khi còn sống chung trị giá $380,000.
Từ lúc ly thân cho đến ngày xét xử, tiền hưu trong quỹ hưu bổng của người chồng khoảng chừng $90,000, còn người vợ thì chỉ được chừng $30,000.
Vị thẩm phán tọa xử đã cho rằng người vợ không đóng góp tài chánh trực tiếp vào “căn nhà mà người chồng đã mua sau khi ly thân” (the property purchased by the husband post-separation). Tuy thế, ông cũng đã tuyên bố rằng việc căn nhà tăng giá không phải do người chồng bỏ tiền vào tu sửa, mà do sự tăng giá bất ngờ trong khu vực mà căn nhà đã tọa lạc.
Vào ngày 14 tháng 5 năm 2004, “vị thẩm phán tọa xử đã chia tài sản của các bên đương sự, 70% cho người vợ, phần còn lại cho người chồng. Các tài sản khác, đặc biệt là căn nhà mà người chồng mua sau khi ly thân, là không tính trong bảng liệt kê tài sản theo đó tỷ lệ phân chia được áp dụng.” (The trial judge divided property of the parties, 70% to the wife, the balance to the husband. Other property, notably a house purchased by the husband post-separation, was not included in a table of assets to which the percentage for division was applied).
Người vợ bèn kháng án vì cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm trong việc đánh giá sự đóng góp của mỗi bên đương sự, đặc biệt là đã không tính căn nhà của người chồng tậu mãi được sau khi ly thân như là tài sản chung của hai vợ chồng.
Tòa kháng án cho rằng dựa vào các nguyên tắc được “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” [The High Court] đưa ra trong vụ House v The King (1936) 55 CLR 499 liên hệ đến thẩm quyền tùy tiện của vị thẩm phán tọa xử. Trong vụ đó, tòa đưa ra nguyên tắc rằng nếu dựa vào các sự kiện tòa kháng án xét thấy rằng phán quyết được đưa ra là không hợïp lý và bất công thì tòa có thể hủy bỏ phán quyết đó và thay thế bằng một phán quyết hợp lý và công bằng hơn.
Vì thế, Tòa cho rằng toàn bộ tài sản của hai vợ chồng sau khi trừ các món nợ là $773,500 [tính luôn trị giá căn nhà mà người chồng đã tậu mãi được sau khi ly thân].
Trong lúc đó vị thẩm phán tọa xử đã không tính trị giá của căn nhà mà người chồng đã mua được sau khi sống ly thân như là tài sản của 2 vợ chồng, vì thế việc phân chia tài sản chỉ căn cứ vào tổng số tài sản là $365,000 [sau khi trừ nợ]. Số tiền này quá ít so với tổng số tài sản hiện có của 2 vợ chồng.
Cuối cùng tòa đã đưa ra phán quyết là người vợ sẽ được hưởng 45% và người chồng sẽ được hưởng 55% trên tổng số tài sản $773,500 [sau khi trừ nợ].
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc chồng bà đề nghị bà phải trả cho ông ta $50,000 để ông ta sang tên căn nhà lại cho bà trong trường hợp này là một đề nghị hoàn toàn không hợp lý và thiếu công bằng.
Căn cứ vào tổng số tài sản hiện có của bà và của chồng bà, chúng tôi nghĩ rằng nếu chồng bà không trả thêm tiền cho bà, thì ông ta nên sang tên căn nhà lại cho bà mà không được đòi bà trả thêm bất cứ số tiền nào.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Từ ngày đến Úc tôi chỉ làm cho lò bánh mì 2 ngày một tuần, và những ngày khác thì nhận đồ may thêm, còn chồng tôi thì làm việc toàn thời tại hãng bán đồ điện. Khi dọn ra ở riêng, chồng tôi đã xin nghỉ việc và lãnh được một số tiền mà tôi không rõ là bao nhiêu, và cũng có lẽ nhờ số tiền này mà ông ta đã sang được một nhà hàng nhỏ. Vào cuối năm 2003, ông ta mua thêm một căn appartment.
Giờ đây ông ta muốn thương lượng để chia tài sản. Ông ta đề nghị là tôi đưa cho ông ta $50,000 và ông ta sẽ sang tên căn nhà mà hiện giờ mẹ con chúng tôi đang sống cho tôi.
Căn nhà này hiện thời trị giá chừng $380,000 nhưng vẫn còn thiếu ngân hàng khoảng $150,000.
Riêng căn appartment của ông ta cũng ngang giá với căn nhà mà tôi đang ở. Tuy nhiên ông ta còn thiếu chừng $120,000. Còn nhà hàng của ông ta, theo bạn bè của tôi cho biết thì trị giá chừng $80,000.
Hiện tôi vẫn chưa đồng ý với đề nghị này. Tuy nhiên, ông ta đã giải thích cho tôi biết là những tài sản ông ta mua được sau khi ly thân là của ông ta, tôi hoàn toàn không có quyền lợi gì trong đó cả. Ông ta còn nói với tôi, việc ông ta chỉ đòi tôi trả $50,000 là một sự nhượng bộ đối với tôi rồi.
Xin LS cho biết là với những chi tiết vừa nêu, tôi có nên chấp nhận những đề nghị của ông ta đưa ra hay không"
Trả lời: Trong vụ I & I [2005] Fam CA 433. Trong vụ đó, hai bên đương sự bắt đầu sống chung với nhau vào năm 1984, rồi sau đó họ đã kết hôn vào tháng 9 năm 1984.
Họ có với nhau hai đứa con, một đứa sinh vào năm 1989 và đứa kia sinh vào năm 1991.
Họ ly thân vào năm 1995, và ly dị vào năm 1998.
Vào ngày 6 tháng 10 năm 2003, Thẩm Phán Carmody đã cho phép người vợ tiến hành thủ tục xin chia tài sản.
Hai vợ chồng cùng làm nghề giáo, và vì người vợ phải bận rộn chăm sóc hai đứa con nên thỉnh thoảng bà ta đã phải bỏ việc trong một thời gian. Rồi bà ta phải xin làm việc theo hợp đồng. Riêng người chồng thì vẫn làm việc toàn thời đồng thời đã ghi danh học thêm và đã lấy thêm được bằng cấp trong lãnh vực tâm lý học.
Sau khi ly thân, người chồng đã mua một căn nhà khác nhờ vào số tiền $65,000 do cha mẹ của ông ta cho mượn mà không lấy tiền lời, số còn lại người chồng phải mượn ngân hàng.
Vào năm 2002, người chồng tự nguyện nghỉ việc và lãnh được một số tiền là $53,000. Thoạt tiên ông ta trả số tiền này cho ngân hàng để giảm bớt số nợ phải trả hàng tháng cho ngân hàng. Nhưng sau đó vì bị thất nghiệp nên ông đã rút gần hết số tiền đó ra.
Người chồng trả tiền cấp dưỡng đề đặn cho hai đứa nhỏ từ ngày ly thân cho đến ngày xét xử để phân chia tài sản mỗi tháng là $250, đồng thời ông ta cũng phụ để trả tiền học phí cho hai đứa con. Tuy nhiên, người vợ vẫn là người phải trả hầu hết phí tổn cho hai đứa nhỏ.
Tổng lượng thời gian mà người chồng được phép thăm hai đứa nhỏ bằng 1/3 thời gian của người vợ nuôi dưỡng chúng.
Vào lúc xét xử, trị giá căn nhà của người chồng mua $153,000 vào năm 1997, sau khi họ ly thân, đã lên đến $360,000.
Trong lúc đó căn nhà mà hai vợ chồng tậu mãi khi còn sống chung trị giá $380,000.
Từ lúc ly thân cho đến ngày xét xử, tiền hưu trong quỹ hưu bổng của người chồng khoảng chừng $90,000, còn người vợ thì chỉ được chừng $30,000.
Vị thẩm phán tọa xử đã cho rằng người vợ không đóng góp tài chánh trực tiếp vào “căn nhà mà người chồng đã mua sau khi ly thân” (the property purchased by the husband post-separation). Tuy thế, ông cũng đã tuyên bố rằng việc căn nhà tăng giá không phải do người chồng bỏ tiền vào tu sửa, mà do sự tăng giá bất ngờ trong khu vực mà căn nhà đã tọa lạc.
Vào ngày 14 tháng 5 năm 2004, “vị thẩm phán tọa xử đã chia tài sản của các bên đương sự, 70% cho người vợ, phần còn lại cho người chồng. Các tài sản khác, đặc biệt là căn nhà mà người chồng mua sau khi ly thân, là không tính trong bảng liệt kê tài sản theo đó tỷ lệ phân chia được áp dụng.” (The trial judge divided property of the parties, 70% to the wife, the balance to the husband. Other property, notably a house purchased by the husband post-separation, was not included in a table of assets to which the percentage for division was applied).
Người vợ bèn kháng án vì cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm trong việc đánh giá sự đóng góp của mỗi bên đương sự, đặc biệt là đã không tính căn nhà của người chồng tậu mãi được sau khi ly thân như là tài sản chung của hai vợ chồng.
Tòa kháng án cho rằng dựa vào các nguyên tắc được “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” [The High Court] đưa ra trong vụ House v The King (1936) 55 CLR 499 liên hệ đến thẩm quyền tùy tiện của vị thẩm phán tọa xử. Trong vụ đó, tòa đưa ra nguyên tắc rằng nếu dựa vào các sự kiện tòa kháng án xét thấy rằng phán quyết được đưa ra là không hợïp lý và bất công thì tòa có thể hủy bỏ phán quyết đó và thay thế bằng một phán quyết hợp lý và công bằng hơn.
Vì thế, Tòa cho rằng toàn bộ tài sản của hai vợ chồng sau khi trừ các món nợ là $773,500 [tính luôn trị giá căn nhà mà người chồng đã tậu mãi được sau khi ly thân].
Trong lúc đó vị thẩm phán tọa xử đã không tính trị giá của căn nhà mà người chồng đã mua được sau khi sống ly thân như là tài sản của 2 vợ chồng, vì thế việc phân chia tài sản chỉ căn cứ vào tổng số tài sản là $365,000 [sau khi trừ nợ]. Số tiền này quá ít so với tổng số tài sản hiện có của 2 vợ chồng.
Cuối cùng tòa đã đưa ra phán quyết là người vợ sẽ được hưởng 45% và người chồng sẽ được hưởng 55% trên tổng số tài sản $773,500 [sau khi trừ nợ].
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc chồng bà đề nghị bà phải trả cho ông ta $50,000 để ông ta sang tên căn nhà lại cho bà trong trường hợp này là một đề nghị hoàn toàn không hợp lý và thiếu công bằng.
Căn cứ vào tổng số tài sản hiện có của bà và của chồng bà, chúng tôi nghĩ rằng nếu chồng bà không trả thêm tiền cho bà, thì ông ta nên sang tên căn nhà lại cho bà mà không được đòi bà trả thêm bất cứ số tiền nào.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Gửi ý kiến của bạn