Hỏi (Ông Trần H Vân): Tôi định cư tại Úc vào năm 1985. Vào năm 1987, trong thời gian ghi danh và theo học tại trường Technical College, tôi quen một người bạn cùng lớp. Cô ta nhỏ hơn tôi 21 tuổi. Vì chúng tôi đều là những sinh viên độc thân, nên đã đồng ý mướn nhà chung gần trường để tiện cho việc học.
Vào năm 1989, chúng tôi có với nhau một bé gái. Mặc dầu không tổ chức kết hôn nhưng chúng tôi vẫn chung sống với nhau như vợ chồng. Đến năm 1992 chúng tôi lại có thêm một bé trai. Vào năm đó, chúng tôi đã đi đăng ký kết hôn. Trong thời gian sống chung, chúng tôi cùng đi làm việc toàn thời.Vì thế, chúng tôi đã mua được một căn appartment và một căn nhà. Chúng tôi cho mướn căn appartment và cư ngụ tại căn nhà để có nhiều chỗ cho các cháu nô đùa.
Vì phải bận rộn nuôi 2 cháu nên vợ tôi tuy làm việc toàn thời nhưng tính ra nàng làm thời gian ngắn hơn tôi nhiều. Hai căn nhà kể từ ngày tậu mãi, trên giấy tờ bằng khoán chỉ có một mình vợ tôi đứng tên.
Gần đây tính tình của vợ tôi thay đổi, nàng không còn chăm sóc và lo lắng cho đời sống gia đình như xưa. Tôi có hỏi nàng về sự thay đổi đó thì nàng không trả lời, nhưng qua dáng điệu và cử chỉ tôi cũng có thể đoán biết được tâm tư của nàng. Hiện tôi sợ nàng bán nhà, vì hai căn nhà này không còn thiếu nợ ngân hàng.
Xin LS cho biết là tôi phải làm cách nào để ngăn chận việc nàng bán hoặc chuyển nhượng căn nhà cho một người khác" Thực ra tôi là người trả hầu hết tiền cho hai căn nhà này. Tôi nghe nói là mặc dầu không đứng tên nhưng tôi vẫn có quyền chia phần như những vợ chồng cùng đứng tên"
Trả lời: Điều 78(1) Đạo Luật Gia Đình 1975 quy định rằng: “Trong thủ tục tranh tụng giữa các bên hôn phối liên hệ đến bằng khoán hoặc các quyền lợi hiện hữu liên quan đến tài sản, tòa có thể tuyên bố bằng khoán hoặc các quyền lợi, nếu có, mà một bên đương sự có được liên hệ đến tài sản đó.” (In proceedings between the parties to a marriage with respect to existing title or rights in respect of property, the court may declare the title or rights, if any, that a party has in respect of the property).
Điều 78(2) quy định rằng: “ Khi tòa tuyên bố theo sự quy định của điều 78 khoản 1, tòa có thể đưa ra các án lệnh ngay sau đó để sự tuyên bố đó có hiệu lực, các án lệnh đó gồm án lệnh về việc bán hoặc phân chia [tài sản] và các án lệnh tạm thời hoặc vĩnh viễn về quyền sở hữu.” (Where a court makes a declaration under subsection (1), it may make consequential orders to give effect to the declaration, including orders as to sale or partition and interim or permanent orders as to possession).
Trong vụ W & D [2003] FMCA fam 391. Trong vụ đó, hai bên đương sự đã sống với nhau từ năm 1988 hoặc 1989 và đã ly thân vào tháng 7 năm 2002. Họ đã kết hôn vào năm 1989. Trong thời gian sống chung họ mua được 3 căn nhà. Tất cả các căn nhà này đều đứng tên của người vợ.
Trong thời gian xét xử, hai bên đã tranh cãi về quyền lợi trong các căn nhà này.
Người chồng đã khiếu nại về quyền lợi của đương sự trong các căn nhà này. Trong “tờ khai hữu thệ” (affidavit), người chồng tuyên bố là đã góp phần vào các căn nhà đó, vì thế đương sự đòi hỏi về quyền lợi trong các căn nhà đó. Người chồng cho rằng mặc dầu các căn nhà này đều đứng tên riêng của người vợ nhưng được xem như là tài sản của cả hai vợ chồng.
Người chồng bèn nộp “cáo tri pháp lý” (caveat) để ngăn chận không cho người vợ tự ý bán các căn nhà này.
[Ghi chú: caveat [Lat] (cáo tri pháp lý [yêu cầu báo trước cho biết]): Cáo tri pháp lý được nộp cho tòa án hoặc cơ quan chính quyền nhằm mục đích ngăn chận một hành động nào đó được thực hiện mà không thông báo cho người nộp cáo tri pháp lý biết. (A legal notice lodged with the court or government office for the purpose of preventing a certain action being taken without notifying the person entering caveat)].
Người vợ bèn nộp đơn xin tòa đưa ra án lệnh buộc người chồng phải rút lại các “cáo tri pháp lý.” Vấn đề được đặt ra ở đây là (1) liệu tòa có thẩm quyền tư pháp để đưa ra án lệnh hầu buộc người chồng rút lại các “cáo tri pháp lý” mà ông ta đã nộp liên hệ đến các tài sản mà người vợ đã đứng tên hay không" (2) Liệu vấn đề này có thuộc về thẩm quyền tư pháp của “Tối Cao Pháp Viện” (the Supreme Court) hay không"
Nếu tòa có thẩm quyền tư pháp thì tòa có nên hành xử thẩm quyền tư pháp đó để đưa ra án lệnh tạm thời hầu buộc người chồng phải rút lại các “cáo tri pháp lý” đó hay không”"
Vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra phán quyết rằng đây là vấn đề thuộc thẩm quyền của tòa án gia đình mà không phải là vấn đề thuộc thẩm quyền của Tối Cao Pháp Viện, vì vấn đề được đưa ra xét xử trước tòa án gia đình theo Đạo Luật Gia đình 1975, do đó Tòa Án Gia Đình có thẩm quyền để quyết định các vấn đề liên hệ.
Người chồng đã đưa ra bằng chứng để chứng minh rằng người vợ đã đe dọa là sẽ bán các tài sản để người chồng không còn gì để khiếu nại. Vì thế, người chồng đã yêu cầu các “cáo tri pháp lý” phải được duy trì để người vợ phải thông báo ý định của bà ta cho người chồng biết mỗi khi bà ta có ý định bán các tài sản đó.
Tòa đã đưa ra phán quyết rằng mặc dầu các tài sản đó đều do người vợ đứng tên, tuy nhiên cả hai vợ chồng đều xem đây là những tài sản chung vào lúc tậu mãi, nên người chồng không những chỉ có quyền lợi trong hai căn nhà này theo sự quy định của Điều 79 thuộc Đạo Luật Gia Đình, mà còn có “quyền lợi theo công lý tự nhiên – quyền lợi theo luật công bình” (equitable interest).
Cuối cùng Tòa đã từ chối đưa ra quyết định buộc người chồng phải rút lại các “cáo tri pháp lý” theo đơn thỉnh cầu của người vợ.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng để ngăn chận việc vợ ông tẩu tán tài sản do sự đóng góp của ông trong thời gian chung sống, ông có thể nộp ngay “cáo tri pháp lý” để vợ ông không thể tự bán các tài sản đó được. Việc này cần phải làm ngay, càng sớm càng tốt, vì nếu vợ ông chuyển nhượng các căn nhà này cho những người khác trong lúc này thì ông khó có thể nộp “cáo tri pháp lý,” và thủ tục sẽ trở thành phức tạp và rắc rối hơn.
Chắc chắn rằng nếu hai vợ chồng của ông không đạt được sự thỏa thuận trong vấn đề phân chia tài sản để tòa đưa ra “án lệnh đồng thuận” (consent orders), thì vấn đề phân chia tài sản sẽ phải được phân xử tại tòa. Điều này ông và vợ ông sẽ phải đợi khoảng chừng 18 tháng hoặc lâu hơn nữa, và chi phí luật sư cho mỗi bên sẽ lên đến hàng chục ngàn đô la. Trong trường hợp của ông, mặc dầu ông không đứng tên trong bằng khoán nhưng khi tòa đưa ra quyết định phân chia tài sản ông sẽ được xem như là người cùng đứng tên làm chủ với vợ ông về những căn nhà đó.
Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận hơn.