Hỏi (Bà Trần T.T.V.): Cuối năm 1990, tôi có mua một căn nhà vào lúc đó chỉ một mình tôi đứng tên làm chủ cũng như mượn tiên ngân hàng.
Đến năm 1994, chồng tôi có việc làm toàn thơiø nên ông ta muốn cùng đứng tên chung với tôi ở trong căn nhà đó.
Thế là chúng tôi cùng ra ngân hàng làm lại thủ tục mượn tiền để chồng tôi cùng đứng tên chung.
Năm 1998, chồng tôi đã xin nghỉ việc để cùng bạn bè của ông ta về Việt Nam làm ăn.
Thực tình mà nói là năm [2000] ông ta đã refinance căn nhà mà chúng tôi cùng đứng tên để lấy thêm tiền về Việt Nam.
Tôi đã ngăn cản ông ta nhiều lần là không nên tiếp tục đổ tiền vào Việt Nam, nhưng ông ta đã không nghe lời của tôi.
Nhiều lần tôi yêu cầu ông ta nộp đơn ly dị vì ông ta sống mà không lưu tâm đến cuộc sống của mẹ con chúng tôi tại Úc, nhưng ông ta vẫn tảng lờ đi như không hề nghe thấy.
Đến nay vì làm ăn thất bại nên ông ta muốn tuyên bố phá sản.
Xin LS cho biết là nếu chồng tôi tuyên bố phá sản thì căn nhà hiện thời mà chúng tôi đang ở có bị tịch thu để đem bán hay không" Còn quyền lợi của cá nhân tôi trong căn nhà thì sao"
Nếu ông ta tuyên bố phá sản và chúng tôi vẫn muốn cư ngụ tại căn nhà đó để tiện bề cho con cái tôi đến trường có được không"
Trong trường hợp tôi nộp đơn xin ly dị và dành căn nhà về phần tôi thì tôi có quyền buộc ông ta sang căn nhà đó cho chúng tôi không" Nếu được thì tôi phải đóng tiền stamp duty như thế nào"
Chồng tôi hứa là sẽ không trở lại Việt Nam nữa, ông chỉ muốn tuyên bố phá sản và sau 3 năm ông ta sẽ làm lại cuộc đời. Vì thế, chồng tôi muốn tuyên bố phá sản càng sớm càng tốt, xin LS cố vấn cho chúng tôi.
Trả lời: Nếu chồng bà tuyên bố phá sản thì tất cả tài sản của chồng bà sẽ được chuyển giao cho “viên chức quản lý tài sản trong các vụ phá sản” (trustee in bankruptcy) để ông [hoặc bà] này bán và trả lại phần nào số tiền mà chồng bà đã thiếu các con nợ.
Tôi không biết là khi cùng đứng tên chung trong căn nhà mà gia đình bà đang cư ngụ, ông và bà đã đứng tên với tư cách là “joint tenants” hay là “tenants in common.”
Cả hai từ ngữ vừa nêu đều có nghĩa là “người cùng làm chủ, quyền sở hữu chung,” nhưng hiệu quả pháp lý của chúng hoàn toàn khác nhau.
Vì hiệu quả pháp lý của hai từ ngữ này hoàn toàn khác nhau, nên tôi đề nghị là chúng ta nên dịch thuật từ “joint tenants, [joint tenancy]” là “người có ‘quyền sở hữu ghép’, [quyền sở hữu ghép]” và “tenants in common, [tenancy in common]” là “người có ‘quyền sở hữu chung’, [quyền sở hữu chung]” cho dễ phân biệt.
Hiệu quả pháp lý của “quyền sở hữu ghép” (joint tenants) là khi một trong những người đứng cùng tên làm chủ trong một tài sản theo loại quyền sở hữu này bị chết, thì phần hùn của người đó sẽ được tự động chuyển giao lại cho những người còn sống sót.
Người cùng đứng tên làm chủ căn nhà theo loại “quyền sở hữu ghép” này không thể làm di chúc chuyển lại phần hùn của mình trong căn nhà đó cho một người khác mà mình thương mến hoặc yêu thích.
Vì thế, nếu một mai khi đương sự qua đời thì phần hùn của tài sản đó sẽ thuộc về những người khác cùng đứng tên trong căn nhà.
Ngược lại, nếu một người có “quyền sở hữu chung” (tenants in common) trong một căn nhà, thì đương sự có quyền để lại di chúc để tặng phần hùn trong căn nhà đó cho bất cứ người nào khác mà đương sự muốn.
Vì hiệu quả pháp lý khác biệt như vừa nêu, nên quyền lợi của bà trong căn nhà cũng sẽ bị ảnh hưởng theo quyết định của chồng bà.
Nếu bà làm chủ với tư cách là “người có quyền sở hữu ghép” (joint tenants), thì khi chồng bà tuyên bố phá sản hoặc thiếu nợ không trả nổi, thì các chủ nợ sẽ xin án lệnh của tòa đưa nhà bà ra bán [và sau khi trừ tiền nợ của ngân hàng] họ có thể lấy lại số tiền mà chồng bà đã thiếu họ.
Ngược lại, nếu bà đứng tên với tư cách là “người có quyền sở hữu chung” (tenants in common), thì bà là người có quyền mua lại phần của chồng bà [nếu bà muốn] trước khi các chủ nợ xin án lệnh bán căn nhà mà chồng bà đã có phần hùn ở trong đó, và giá mà bà phải trả là giá của thị trường hiện hành.
Trong trường hợp bà không muốn mua lại phần của chồng bà trong căn nhà đó, thì sau khi bán nhà, trừ tiền nợ mà căn nhà còn thiếu ngân hàng, bà sẽ được quyền hưởng một nửa trên số tiền còn lại đó.
Riêng câu hỏi là bà có quyền tiếp tục ở lại trong căn nhà đó để tiện việc học cho con của bà, sau khi chồng bà đã tuyên bố phá sản, hay không"
Điều này còn tùy thuộc vào giá trị của căn nhà và số tiền mà ông bà còn thiếu ngân hàng.
Nếu giá cả hiện thời của căn nhà và số tiền thiếu nợ ngân hàng xấp xỉ nhau, thì “viên chức quản lý tài sản trong vụ phá sản” (trustee in bankruptcy) sẽ để cho bà tiếp tục ở trong căn nhà đó, với điều kiện là bà còn đủ khả năng để tiếp tục trả nợ cho ngân hàng hằng tháng. Tuy nhiên, việc này không có lợi vì giá trị của bất động sản sẽ tăng dần theo thời gian, và một ngày nào đó khi căn nhà lên giá, viên chức này có quyền đem căn nhà đó bán đấu giá để trả lại phần nào số tiền còn thiếu các chủ nợ trước đó, dù rằng vào lúc đó chồng bà đã được “giải trừ khỏi sự phá sản” ( discharge of bankruptcy).
Thực ra bà không cần phải ly dị nếu bà nhận thấy rằng tình trạng hôn nhân chưa đến lúc cần phải ly dị. Mặc dầu bà không ly dị, bà vẫn có quyền nộp đơn xin tòa án gia đình phân chia tài sản bằng “án lệnh đồng thuận” (consent order) để căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của riêng bà.
Một khi “Tòa Án Gia Đình” (the Family Court) đã ban án lệnh thì việc tuyên bố phá sản của chồng bà sau đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến căn nhà của bà.
Về phương diện lý thuyết, Tòa Án Gia Đình và Tòa Án Liên Bang là các tòa hành xử “thẩm quyền tư pháp liên bang” (federal jurisdiction), vì thế nếu Tòa Án Gia Đình đưa ra án lệnh trước, thì “Tòa Án Liên Bang” (the Federal Court) không thể đưa ra quyết định trái nghịch với quyết định đó của Tòa Án Gia Đình.
Bằng “án lệnh đồng thuận” (consent order) chồng bà có thể chuyển giao lại căn nhà đó cho bà, và bà có thể yên tâm sống trong căn nhà đó, với điều kiện là việc tuyên bố phá sản của chồng bà phải xảy ra sau ngày Tòa Án Gia Đình đưa ra quyết định.
Trên thực tế, nếu xét thấy có sự khi trá thì các con nợ có thể xin tòa hủy bỏ quyết định đó của tòa.
Bà không phải trả tiền “thuế con niêm” (stamp duty) cho “Sở Thuế Vụ Tiểu Bang” (Office of State Revenue) nếu việc sang tên tài sản đó cho bà là do quyết định của Tòa Án Gia Đình. Chúc bà may mắn.
Đến năm 1994, chồng tôi có việc làm toàn thơiø nên ông ta muốn cùng đứng tên chung với tôi ở trong căn nhà đó.
Thế là chúng tôi cùng ra ngân hàng làm lại thủ tục mượn tiền để chồng tôi cùng đứng tên chung.
Năm 1998, chồng tôi đã xin nghỉ việc để cùng bạn bè của ông ta về Việt Nam làm ăn.
Thực tình mà nói là năm [2000] ông ta đã refinance căn nhà mà chúng tôi cùng đứng tên để lấy thêm tiền về Việt Nam.
Tôi đã ngăn cản ông ta nhiều lần là không nên tiếp tục đổ tiền vào Việt Nam, nhưng ông ta đã không nghe lời của tôi.
Nhiều lần tôi yêu cầu ông ta nộp đơn ly dị vì ông ta sống mà không lưu tâm đến cuộc sống của mẹ con chúng tôi tại Úc, nhưng ông ta vẫn tảng lờ đi như không hề nghe thấy.
Đến nay vì làm ăn thất bại nên ông ta muốn tuyên bố phá sản.
Xin LS cho biết là nếu chồng tôi tuyên bố phá sản thì căn nhà hiện thời mà chúng tôi đang ở có bị tịch thu để đem bán hay không" Còn quyền lợi của cá nhân tôi trong căn nhà thì sao"
Nếu ông ta tuyên bố phá sản và chúng tôi vẫn muốn cư ngụ tại căn nhà đó để tiện bề cho con cái tôi đến trường có được không"
Trong trường hợp tôi nộp đơn xin ly dị và dành căn nhà về phần tôi thì tôi có quyền buộc ông ta sang căn nhà đó cho chúng tôi không" Nếu được thì tôi phải đóng tiền stamp duty như thế nào"
Chồng tôi hứa là sẽ không trở lại Việt Nam nữa, ông chỉ muốn tuyên bố phá sản và sau 3 năm ông ta sẽ làm lại cuộc đời. Vì thế, chồng tôi muốn tuyên bố phá sản càng sớm càng tốt, xin LS cố vấn cho chúng tôi.
Trả lời: Nếu chồng bà tuyên bố phá sản thì tất cả tài sản của chồng bà sẽ được chuyển giao cho “viên chức quản lý tài sản trong các vụ phá sản” (trustee in bankruptcy) để ông [hoặc bà] này bán và trả lại phần nào số tiền mà chồng bà đã thiếu các con nợ.
Tôi không biết là khi cùng đứng tên chung trong căn nhà mà gia đình bà đang cư ngụ, ông và bà đã đứng tên với tư cách là “joint tenants” hay là “tenants in common.”
Cả hai từ ngữ vừa nêu đều có nghĩa là “người cùng làm chủ, quyền sở hữu chung,” nhưng hiệu quả pháp lý của chúng hoàn toàn khác nhau.
Vì hiệu quả pháp lý của hai từ ngữ này hoàn toàn khác nhau, nên tôi đề nghị là chúng ta nên dịch thuật từ “joint tenants, [joint tenancy]” là “người có ‘quyền sở hữu ghép’, [quyền sở hữu ghép]” và “tenants in common, [tenancy in common]” là “người có ‘quyền sở hữu chung’, [quyền sở hữu chung]” cho dễ phân biệt.
Hiệu quả pháp lý của “quyền sở hữu ghép” (joint tenants) là khi một trong những người đứng cùng tên làm chủ trong một tài sản theo loại quyền sở hữu này bị chết, thì phần hùn của người đó sẽ được tự động chuyển giao lại cho những người còn sống sót.
Người cùng đứng tên làm chủ căn nhà theo loại “quyền sở hữu ghép” này không thể làm di chúc chuyển lại phần hùn của mình trong căn nhà đó cho một người khác mà mình thương mến hoặc yêu thích.
Vì thế, nếu một mai khi đương sự qua đời thì phần hùn của tài sản đó sẽ thuộc về những người khác cùng đứng tên trong căn nhà.
Ngược lại, nếu một người có “quyền sở hữu chung” (tenants in common) trong một căn nhà, thì đương sự có quyền để lại di chúc để tặng phần hùn trong căn nhà đó cho bất cứ người nào khác mà đương sự muốn.
Vì hiệu quả pháp lý khác biệt như vừa nêu, nên quyền lợi của bà trong căn nhà cũng sẽ bị ảnh hưởng theo quyết định của chồng bà.
Nếu bà làm chủ với tư cách là “người có quyền sở hữu ghép” (joint tenants), thì khi chồng bà tuyên bố phá sản hoặc thiếu nợ không trả nổi, thì các chủ nợ sẽ xin án lệnh của tòa đưa nhà bà ra bán [và sau khi trừ tiền nợ của ngân hàng] họ có thể lấy lại số tiền mà chồng bà đã thiếu họ.
Ngược lại, nếu bà đứng tên với tư cách là “người có quyền sở hữu chung” (tenants in common), thì bà là người có quyền mua lại phần của chồng bà [nếu bà muốn] trước khi các chủ nợ xin án lệnh bán căn nhà mà chồng bà đã có phần hùn ở trong đó, và giá mà bà phải trả là giá của thị trường hiện hành.
Trong trường hợp bà không muốn mua lại phần của chồng bà trong căn nhà đó, thì sau khi bán nhà, trừ tiền nợ mà căn nhà còn thiếu ngân hàng, bà sẽ được quyền hưởng một nửa trên số tiền còn lại đó.
Riêng câu hỏi là bà có quyền tiếp tục ở lại trong căn nhà đó để tiện việc học cho con của bà, sau khi chồng bà đã tuyên bố phá sản, hay không"
Điều này còn tùy thuộc vào giá trị của căn nhà và số tiền mà ông bà còn thiếu ngân hàng.
Nếu giá cả hiện thời của căn nhà và số tiền thiếu nợ ngân hàng xấp xỉ nhau, thì “viên chức quản lý tài sản trong vụ phá sản” (trustee in bankruptcy) sẽ để cho bà tiếp tục ở trong căn nhà đó, với điều kiện là bà còn đủ khả năng để tiếp tục trả nợ cho ngân hàng hằng tháng. Tuy nhiên, việc này không có lợi vì giá trị của bất động sản sẽ tăng dần theo thời gian, và một ngày nào đó khi căn nhà lên giá, viên chức này có quyền đem căn nhà đó bán đấu giá để trả lại phần nào số tiền còn thiếu các chủ nợ trước đó, dù rằng vào lúc đó chồng bà đã được “giải trừ khỏi sự phá sản” ( discharge of bankruptcy).
Thực ra bà không cần phải ly dị nếu bà nhận thấy rằng tình trạng hôn nhân chưa đến lúc cần phải ly dị. Mặc dầu bà không ly dị, bà vẫn có quyền nộp đơn xin tòa án gia đình phân chia tài sản bằng “án lệnh đồng thuận” (consent order) để căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của riêng bà.
Một khi “Tòa Án Gia Đình” (the Family Court) đã ban án lệnh thì việc tuyên bố phá sản của chồng bà sau đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến căn nhà của bà.
Về phương diện lý thuyết, Tòa Án Gia Đình và Tòa Án Liên Bang là các tòa hành xử “thẩm quyền tư pháp liên bang” (federal jurisdiction), vì thế nếu Tòa Án Gia Đình đưa ra án lệnh trước, thì “Tòa Án Liên Bang” (the Federal Court) không thể đưa ra quyết định trái nghịch với quyết định đó của Tòa Án Gia Đình.
Bằng “án lệnh đồng thuận” (consent order) chồng bà có thể chuyển giao lại căn nhà đó cho bà, và bà có thể yên tâm sống trong căn nhà đó, với điều kiện là việc tuyên bố phá sản của chồng bà phải xảy ra sau ngày Tòa Án Gia Đình đưa ra quyết định.
Trên thực tế, nếu xét thấy có sự khi trá thì các con nợ có thể xin tòa hủy bỏ quyết định đó của tòa.
Bà không phải trả tiền “thuế con niêm” (stamp duty) cho “Sở Thuế Vụ Tiểu Bang” (Office of State Revenue) nếu việc sang tên tài sản đó cho bà là do quyết định của Tòa Án Gia Đình. Chúc bà may mắn.
Gửi ý kiến của bạn