Để thêm dữ kiện trước khi trả lời câu hỏi nầy chúng ta hãy nhìn qua những sự khác biệt giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ sau đây:
(So Sánh ĐiệnBiên Phủ & Khe Sanh)
Điện Biên Phủ
- Trận đánh kèo dài: 56 ngày
- Địa điểm cách xa các căn cứ bạn: 100 dặm
- Tình trạng phi đạo: Không thể xử dụng
- Pháo binh yểm trợ từ xa: Không
- Số đạn bắn vào vị trí mỗi ngày: Trên 2000
- Phi cơ bị bắn hạ và hư hại: 62
- Tái tiếp tế bằng máy bay mỗi ngày: 100 tấn
- Cách bổ sung quân số : Nhảy dù
- Tải thong: Không thực hiện được
- Nỗ lực chiến đấu của địch: Liên tục không ngừng
- Phi vụ tác chiến mỗi ngày 22
- Phi vụ oanh tạc hạng nặng mỗi ngày: Không
- Số người được không vận tới chiến trường: Không
- Số người được đưa ra khỏi: Không
Khe Sanh
- Trận đánh kèo dài: 77 ngày
- Địa điểm cách xa các căn cứ bạn: 12 dặm (Rock Pile)
- Tình trạng phi đạo: Có thể sử dụng cho cả C-123
- Pháo binh yểm trợ từ xa: Súng 175 ly
- Số đạn bắn vào vị trí mỗi ngày: 150
- Phi cơ bị bắn hạ và hư hại: 7 bị hạ - 18 : bị hư hại (không tính trực thăng)
- Tái tiếp tế bằng máy bay mỗi ngày: 161 tấn
- Cách bổ sung quân số: Bằng máy bay
- Tải thong: Bằng trực thăng
- Nỗ lực chiến đấu của địch: 4 cuộc tấn công tính đến 1 tháng 3, 1968, sau đó chỉ mở những toán hànhquân do thám
- Phi vụ tác chiến mỗi ngày 300
- Phi vụ oanh tạc hạng nặng mỗi ngày: 45 đến 50
- Số người được không vận tới chiến trường: 2,676 người không kể số tới chiến trường người đi bằng trực thăng
- Số người được đưa ra khỏi: 1,574 người không kể số tới chiến trường người đi bằng trực thăng
Vì quen sử dụng các con số thống kê lạnh lùng, các nhà viết sách không để ý nhiều đến những sự khác nhau về địa lý và dân tình. Tại Khe Sanh một số lớn dân chúng sống bằng nghề làm phu đồn điền, được bảo vệ và hỗ trợ trong khuôn khổ những chương trình kiến thiết và bình định của chính phủ VNCH, nhưng một số nhỏ vẫn còn là cảm tình viên của các tổ chức Cộng sản nằm vùng nên đã cung cấp tình báo cho Cộng sản.
Về địa thế, Điện Biên Phủ là một thung lũng lớn rộng chừng 12 ngàn cây cố vuông, xung quanh vây kín bởi đồi núi. Địch quân có lợi thế đặt súng lớn trên cao bắn xuống thung lũng sau khi chúng đã dùng nhân dân làm lao công chuyển súng đạn lên các đỉnh đồi. Khe Sanh không phải là một thung lũng như các nhà viết báo và viết sách ngoại quốc đã gọi. Khe Sanh là một cao nguyên cao trên 1,500 thước cách mặt biển. Các ngọn đồi cao đã có quân ta được trực thăng vận đến chiếm đóng. Dù CS đã chui rúc đào địa đạo và dùng chiến thuật biển người, bên ta vẫn luôn ở lợi thế. Địch di chuyển trên những khu vực thấp dọc theo các khe, rào là mục tiêu của phi cơ tác chiến và phi cơ oanh tạc. Dân chúng sống ở thung lũng Điện Biên Phủ phần lớn là người Thái và Hmong và họ đã lần lượt di tản ra khỏi khu vực khi chiến sự bùng nổ.
Với sự hỗ trợ của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, Đô Đốc Tư Lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương và Tướng Tư Lệnh TQLC Thái Bình Dương, Tướng Westmoreland đã sử dụng quyền Tư Lệnh chiến trường dồn quân tiêu diệt địch và trấn đóng ở Khe Sanh vì ông cho rằng nếu địch chiếm Khe Sanh dân chúng Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ cuộc chiến ở Việt Nam, và địch sẽ sử dụng Khe Sanh để đánh xuống 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Ngoài ra ông còn nhắm mục tiêu dùng Khe Sanh làm bàn đạp để tiến quân qua Lào cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh và tiêu diệt các lực lượng Cộng sản trên đất Lào. Mục tiêu này ông đã không đạt được vì không được sự chấp thuận của Tổng thống Johnson, một Tổng thống luôn luôn lo âu về những hậu quả có ảnh hưởng đến tương lai chính trị của chính ông, không muốn Khe Sanh mất vào tay Cộng sản Bắc Việt, nhưng cũng không muốn bành trướng chiến tranh vùng Đông Nam á.
Để trả lời những tranh luận về việc so sánh Khe Sanh với Điện Biên Phủ, tờ báo ôQuân Đội Nhân Dânọ ở Bắc Việt của Cộng sản lên tiếng: ôQuân đội và lực lượng địa phương ta sẽ hành động ở Khe Sanh và Quảng Trị cùng một lúc để cho những kẻ hiếu thắng biết rằng chúng không những phải chiến đấu ở một Điện Biên Phủ mà nhiều Điện Biên Phủ.ọ Tài liệu tình báo của Bộ TTM/QLVNCH, MACV và CIA cho thấy địch có những quyết nghị do hội nghị đảng ban hành ngày 16/1/68 chỉ thị cho quân đội CS ở Bắc vào, lập 1 tuyến từ Khe Sanh xuống đèo Hải Vân, cắt Quảng Nam ra khỏi Huế. Tuyến này sẽ tấn công Quảng Trị và Thừa Thiên. Tướng Trần Công Mẫn, chủ nhiệm tờ báo nầy đã tuyên bố với các cựu chiến binh TQLC/Hoa Kỳ và nhà báo William Broyles năm 1984: ôWestmoreland tưởng Khe Sanh là Điện Biên Phủ nhưng đối với chúng tôi Khe Sanh chỉ là một mặt trận chiến lược. Chúng tôi động viên nhiều khả năng vào đó, nhưng mục đích là để quân bình lực lượng... để nhử lực lượng của quý ông ra khỏi các thành phố để chúng tôi chuẩn bị cuộc Tổng Tấn Công/Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân.ọ
Đối với Tướng Westmoreland, những lời tuyên bố này có tính cách khôi hài, mang màu sắc chống chế và huyênh hoang. Ông đã biết ngay từ đầu là Cộng sản muốn đánh Khe Sanh, cũng như chúng đã cố đánh Cồn Tiên, A Shau và Darkto để tìm những tiếng vang chiến thắng cho kế hoạch thương thuyết hòa đàm của chúng và cũng để sử dụng địa điểm Khe Sanh làm căn cứ tấn công vào hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Ông và Bộ Tham Mưu của ông cùng các đơn vị thuộc quyền không bao giờ bị địch dụ để rơi vào bẫy của chúng. Một lực lượng Quân đội Hoa Kỳ lẫn Việt Nam gồm hai sư đoàn có mặt tại Khe Sanh và tại những địa điểm sát phía nam vĩ tuyến 17 và một phần 3 lực lượng như vậy chờ lệnh tiếp ứng. Tổng số quân sĩ là 20 ngàn người. Tổng số này chỉ xấp xỉ bằng một phần sáu mươi (1/60) tổng số 299 Tiểu đoàn Hoa Kỳ và Đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Như vậy có thể nói Cộng sản đã dụ được ta rơi vào bẫy của chúng được không"
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau giữa Khe Sanh và Điện Biên Phủ, nhưng truyền thông và quần chúng Hoa Kỳ kể cả Tổng thống Hoa Kỳ và Hội Đồng an Ninh Quốc Gia của ông đều cho rằng Khe Sanh là Điện Biên Phủ vì họ nghĩ nếu Khe Sanh mất thì hậu quả xảy ra cho Mỹ sẽ giống như đã xảy ra cho Pháp ngày trước. Sự ám ảnh này người Mỹ gọi là ôĐiện Biên Phủ syndromeọ (Hội chứng ĐBP). Phóng viên có tiếng tăm thời bấy giờ là Walter Cronkite đã loan tin giật gân trên đài truyền hình CBS: ôKhe Sanh, một Điện Biên Phủ thứ 2 đang mở màn... Phóng viên Marvin Kalb tường trình từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ: ôBóng con ma lịch sử của cuộc thảm họa Pháp đang che tối bầu trời Washington.ọ Đô Đốc Sharp, Tư lệnh Lực lượng Mỹ Thái Bình Dương luôn luôn cảnh cáo các cấp chỉ huy dưới quyền: ôhãy nhớ là chúng ta không muốn có lại một Điện Biên Phủ nào, dù là một ĐBP nhỏ.ọ (Remember, we donõt want any Dien Bien Phus, not one, not even a little one.)
Quả thật, Khe Sanh không là một Điện Biên Phủ ôbằng da, bằng thịtọ mà là một con ma ám ảnh người Mỹ do ảnh hưởng của truyền thông. Cũng vì vậy mà hai chữ Khe Sanh khiêm nhường đã hiện ra trên các tờ báo lớn và trên các đài truyền hình thế giới, trên bàn thảo luận của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, tại trung tâm hành quân của Ngũ Giác Đài, và trên sa bàn trong Phòng Tình Hình bên dưới Tòa Bạch Cung.
Hành Quân Lam-Sơn 207-A Kết Thúc Trận Chiến Khe-Sanh
Ngày 11-2-1968, sau khi thu thập đầy đủ những tin tức về tình hình ở Việt Nam, Tổng thống Johnson đã triệu tập một cuộc họp tại Tòa Bạch Cung với sự tham dự của Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, Tổng Trưởng Ngoại Giao Dean Rush, Cố Vấn Đặc Biệt Maxwell Taylor, Chủ Tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Walt Rostow, Chủ Tịch Bộ Tham Mưu Liên Quân ở Ngũ Giác Đài Tướng Earle Wheeler, Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford, Giám Đốc Trung Ương Tình báo Richard Helms để thảo luận và có một quyết định cho Khe Sanh. Tướng Wheeler đã đúc kết kết quả của cuộc họp thành một công điện mật gửi cho Tướng Westmoreland: ôƯu tiên 1 là giải tỏa địch tại các đô thị, thành phố. Ưu tiên 2: không bỏ những phần đất quan trọng nhưng tránh tác chiến tại những địa thế và trong những thời tiết không thuận lợi cho ta. Ưu tiên 2 có ý nói chúng ta đã lỗi lầm khi cố chiếm giữ Khe Sanh trong khi chúng ta nên tập trung lực lượng phòng ngự xuống phía đông.
Vào cuối tháng 3, 1968, Tướng Westmoreland được lệnh lên đường về Mỹ để gặp Tổng thống Johnson trình bày kế hoạch kết thúc trận chiến Khe Sanh. Khi được tin này trong cùng ngày Cộng sản đã cho pháo 1,109 quả đạn vào BCH/Căn cứ HQ/TQLC.
Quân số địch quân lúc này tại Khe Sanh đã giảm. Theo báo cáo của Phòng 2 Bộ TTM/QLVNCH và của MACV, quân số địch chỉ còn lại tại Khe Sanh khoảng từ 6,000 đến 8,000. Tình báo của CIA cho rằng địch còn lại 20,000. Phòng Tình Hình Tòa Bạch Cung Mỹ ước tính quân số địch còn khoảng 14,000.
Thi hành lệnhcủa Tổng Tống VNCH và của Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ thị cho Bộ Tham Mưu Quân Đoàn 1 mở cuộc hành quân LAM SƠN 207-A để giải tỏa địch và khai thông lộ số 9 từ Cam Lộ đến biên giới Lào Việt. Cuộc hành quân do Tướng Ngô Quang Trưởng trách nhiệm chỉ huy với Lực Lượng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân và một Lực Lượng Đặc Nhiệm Dù do Đại Tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy.
Tướng Westmoreland trình với Tổng thống Johnson là ông sẽ cho Đệ Nhất Sư Đoàn không kỵ thay thế TQLC. Hai Tiểu Đoàn TQLC sẽ trách nhiệm khai thông lộ số 9 từ Khe Sanh xuống Cam Lộ để dùng vào việc tiếp vận; ba Tiểu Đoàn Công Binh, một từ Bộ Binh, một từ Hải Quân và một từ TQLC trách nhiệm tu bổ sân bay, làm đường từ Khe Sanh về Cà Lũ.
Cuộc hành quân Lam Sơn 207-A (Mỹ gọi là Pegasus) đã làm cho TQLC Hoa Kỳ phẫn nộ vì họ có cảm tưởng như mọingười cho rằng TQLC không chiến thắng nổi CS nên bị thay thế. Mặc dù nhiều tướng lãnh lên tiếng cho rằng việc dồn quân đánh Khe Sanh là rơi vào kế nghi binh của Cộng sản nhưng tướng Westmoreland vẫn tin rằng Cộng sản đã bị đánh bại tại Khe Sanh nên phải rút lui. Ông đề nghị cuộc hành quân tảo thanh truy kích phải được tổ chức với một quân số Việt Mỹ hùng hậu để nâng cao tinh thần quân sĩ và để chiến thắng tâm lý quần chúng. Ông sẽ cho thả bom loại 10,000 pounds vào những khu vực có thể có địch phục kích trước khi không kỵ xâm nhập khởi sự hành quân.
Cuộc hành quân Lam Sơn 207-A chính thức khởi sự ngày 1 tháng 4, 1968. Các Toán Biệt Kích Lôi Hổ thuộc Căn Cứ Tiền Phương 3 đã xâm nhập làng Khe Sanh trước tiên. Khi vào đến làng, quận đường và chi khu chỉ còn là đống gạch vụn, không còn một bức tường nào, mảnh bom dày đặc trên mặt đất.
KỲ SAU: Tổng Kết Thắng Lợi và Thất Bại của 2 Bên