[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Ông Nguyễn V.H.): Con tôi sau khi học xong lớp 12, đã ghi danh học đại học. Sau khi vừa học xong được năm thứ nhất thì vào đầu năm nay cháu đã về Sydney để thăm bạn bè trong dịp nghĩ hè.
Khi về Sydney cháu đã tá túc tại nhà của một người bạn thân. Vì cha mẹ của người bạn này về Việt Nam trị bệnh nên cháu có gọi điện thọai xin chúng tôi được ở lại Sydney lâu hơn thường lệ. Chúng tôi thấy tình cảnh như thế nên đã đồng ý theo những gì cháu trình bày.
Vào đầu niên học này, cháu đã không về đúng như dự định. Hỏi ra thì biết được cháu và bạn cháu đã bị cáo buộc về tội “supplying prohibited drugs on an ongoing basis”.
Cháu đã ra tòa một lần nhưng không chịu nhận tội. Hiện cháu được tại ngọai và chuẩn bị ra hầu tòa. Xin luật sư cho biết là với tội trạng vừa nêu liệu khi cháu bị tòa kết tội thì hình phạt sẽ như thế nào" Kể từ ngày cháu đến Úc cách đây hơn 15 năm, cháu chưa bao giờ gặp rắc rối với pháp luật.
*
Trả lời: Điều 25A(1) của “Đạo Luật Buôn Bán và Lạm Dụng Ma Túy” (Drug Misuse and Trafficking Act 1985) quy định rằng: “Người cung cấp loại ‘thuốc’ (ma túy) bị nghiêm cấm [khác hơn là cần sa] nhằm thâu đạt lợi nhuận về tài chánh hoặc của cải vật chất, 3 lần riêng biệt hoặc nhiều hơn trong bất cứ thời gian 30 ngày liên tục nào, sẽ bị tội cung cấp ma túy trường kỳ. Hình phạt tối đa: 3,500 đơn vị tiền phạt [tương đương với $385,000.00] hoặc bị tù 20 năm, hoặc cả hai [hình phạt]” (A person who, on 3 or more separate occasions during any period of 30 consecutive days, supplies a prohibited drug [other than cannabis] for financial or material reward is guilty of an offence of supplying prohibited drugs on an ongoing basis. Maximum penalty: 3,500 penalties units or imprisonment for 20 years, or both).
Trong vụ Mirza v R [2007] NSWCCA 248, bị cáo bị cảnh sát chìm theo dõi và bị bắt vì tội bán ma túy cho cảnh sát chìm 3 lần tính từ ngày 27.7 cho đến ngày 12.8.2005.
Việc bán ma túy này xảy ra tại Double Bay vào ngày 28 tháng 7, 4 tháng 8 và 12 tháng 8 năm 2005. Phương cách bán ma túy cho cảnh sát chìm trong mỗi lần đều giống nhau.
Trước tiên “cảnh sát chìm” (undercover police) liên lạc với bị cáo để hẹn mua cocaine với giá $7,500 một ounce. Sau đó cảnh sát chìm đến điểm hẹn tại tiệm cà phê và nói chuyện với bị cáo.
Sau khi nói chuyện với bị cáo, cảnh sát chìm rời tiệm cà phê và trở lại không lâu sau đó. “Rồi bị cáo để gói [cocaine] vào trong xách tay của cảnh sát chìm và lấy phong bì đựng tiền” (The accused then placed a package into the undercover officer’s handbag and removed an envelope containing the money).
Lần đầu tiên bị cáo bán 29.5 grams of cocaine với nồng độ tinh chất là 49%, lần thứ hai 28.7 grams với nồng độ tinh chất là 47%, và lần thứ ba 28.4 grams với nồng độ tinh chất là 27%.
Bị cáo nhận tội và “bản tường trình trước khi tuyên án” (a pre-sentence report) cho thấy rằng “bị cáo đã đồng ý thu xếp để người muốn mua cocaine liên lạc thẳng với người bán mà bị cáo biết” (the accused had agreed to place a person who wanted to purchase cocaine in contact with a supplier he knew).
(Bị cáo muốn trợ giúp trong việc buôn bán ma túy với tiền thù lao mỗi lần là $250” (The accused was willing to assist in the supply of the drug for a reward of $250 on each occasion).
Trong bản tường trình bị cáo còn cho biết rằng bị cáo chưa bao giờ buôn bán bạch phiến và chỉ bị bắt lần này vì muốn giúp cho người bạn tiền để lấy lại “giấy phép hành nghề nhân viên an ninh” (security licence) để ông ta có thể kiếm được việc làm. Vào lúc xử án bị cáo được 47 tuổi, “không có tiền án hình sự” (no prior criminal record).
Bị cáo sinh trưởng tại Pakistan. Kết hôn vào năm 1980 và ly dị vào năm 1987. Đứa con trai 17 tuổi của bị cáo đã chết vào năm 2001 trong một tai nạn xe cộ. Sau đó bị cáo đã rời xa gia đình rồi sống một mình, nhưng vẫn thường xuyên ghé thăm các đưa con còn lại của bị cáo.
Khi đến định cư tại Úc, bị cáo đã làm việc nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng từ năm 2002 bị cáo nhận tiền thất nghiệp vì quá căng thẳng và thất vọng về cái chết của người con trai. Bị cáo chưa bao giờ xử dụng ma túy.
Bị cáo cũng đã từng đi chữa trị tâm lý. Bị cáo cho bác sĩ tâm thần biết là từ lúc đứa con trai chết bị cáo không thể đi làm được. “Giấy phép hành nghề nhân viên an ninh” (security licence) hết hạn vào năm 2004 nhưng bị cáo không chịu đổi lại giấy phép mới. Sau đó vào năm 2005 khi bị cáo xin đổi lại thì điều kiện đã thay đổi đòi hỏi bị cáo phải nộp $900 để học khóa bổ túc. Bị cáo không có tiền nên đã không thể đổi lại giấy phép.
Tòa đã xử bị cáo 6 năm tù và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 3 năm 6 tháng. Bị cáo bèn kháng án. “Thọat tiên bị cáo đã tin vào 2 lý do để kháng án, nhưng đã bỏ lý do thứ nhất vào lúc tòa xử. Lý do còn lại là bản án quá nặng” (The accused initially relied upon two grounds of appeal, but the first was abandoned at the hearing of the application. The remaining is that the sentence manifestly excessive).
Vào lúc kháng án, luật sư của bị cáo đệ trình cho tòa rằng tòa cần phải cứu xét việc bị cáo đã nhận tội và trợ giúp cảnh sát trong việc theo dõi và truy tìm đường dây buôn bán ma túy, và vì thế nên giảm án cho bị cáo.
Tuy nhiên, Tòa Kháng Án Hình Sự cho rằng “mặc dầu bị cáo đồng ý đưa ra bằng chứng về những người dín líu đến việc buôn bán ma túy cho cảnh sát chìm, nhưng không có ý kiến nào cho thấy rằng có bất cứ người nào đã bị truy tố dựa vào những tin tức do bị cáo cung cấp” (although the accused agreed to give evidence against persons who were involved in the supply to the undercover police, but there was no suggestion that any person was to be prosecuted based on the infomation supplied by the accused).
Tòa cho rằng ngay cả trong trường hợp cần thiết để tuyên án lại, thì tòa vẫn không thấy có lý do nào để đưa ra một bản án nhẹ hơn. Cuối cùng Tòa đã tuyên bố là giữ nguyên bản án mà tòa án vùng đã tuyên phán.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng tội trạng mà cháu bị cáo buộc [“cung cấp ma túy trường kỳ” (supplying prohibited drugs on an ongoing basis)] là một tội hình sự nghiêm trọng vì hình phạt tối đa dành cho tội trạng này, theo sự quy định của luật pháp, là 20 năm tù ở.
Tuy nhiên, việc cháu có bị kết tội hay không, ngay cả trong trường hợp nếu bị kết tội thì số tiền bị phạt hoặc thời gian thụ hình dài hay ngắn còn tùy thuộc nhiều yếu tố khác biệt nhau, chẳng hạn như: tiền án, tình trạng gia đình, bệnh tật, tuổi tác cũng như tình huống mà trong đó cháu đã phạm tội.
Nếu ông còn thắc mắc xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận hơn.