Hỏi (ông Trần Quốc Hoàng): Tôi vượt biên năm 1982, và được đến Úc định cư vào năm 1984.
Vào năm 1992, tôi về VN thăm gia đình và kết hôn. Sau đó tôi nộp đơn bảo lãnh. Vào năm 1994, vợ tôi được đến Úc.
Chúng tôi có 2 đứa con, một trai và một gái, sinh năm 1997 và năm 2000.
Từ ngày đến Úc, vợ tôi chỉ đi làm full-time hơn 2 năm. Sau khi sinh các cháu vợ tôi thỉnh thoảng đi làm thêm cuối tuần. Riêng tôi thì đi làm liên tục từ năm 1984. Năm 1986 tôi đã mua một căn nhà. Hồi đó giá nhà rẽ nên tôi đã trả hết nợ cho ngân hàng trước khi cưới vợ tôi. Hiện căn nhà này chúng tôi đang ở, và trị giá chùng $450,000.
Trước khi về VN, vì hãng nơi tôi làm việc phải dọn sang tiểu bang khác, nên tôi đã xin nghỉ việc và lãnh được gần $30,000. Tôi đã dùng số tiền này để đặt cọc mua một căn appartment, số tiền còn thiếu ngân hàng gần $80,000. Trị giá hiện thời của căn appartment này khoảng chừng $300,000. Hiện căn appartment này được cho mướn nên số tiền thu được nhiều hơn số tiền phải trả hàng tháng cho ngân hàng.
Vào năm 1995, khi vợ tôi hạ sinh bé trai đầu lòng, tôi đã xin thôi việc. Không lâu sau đó, tôi đã sang lại một nhà hàng nhỏ trị giá $120,000. Hiện tôi vẫn còn điều hành nhà hàng này. Vợ tôi thỉnh thoảng phụ giúp tôi trong việc điều hành nhà hàng.
Kể từ đầu năm 2002, tôi không hiểu vì lý do gì, vợ tôi bắt đầu đối xử lạnh nhạt với tôi. Từ đó chúng tôi thường cãi vã nhau. Vào cuối năm 2004, vợ tôi đã tự ý mang 2 đứa con ra mướn nhà ở riêng. Tôi chỉ rãnh để thăm các cháu vào cuối tuần.
Cách đây chừng 3 tuần lễ, tôi nhận được thư từ văn phòng của luật sư báo cho biết là vợ tôi đề nghị là tôi nên chia tài sản. Trong thư họ báo cho biết là để tránh việc tốn kém chi phí tranh tụng, và để khỏi mất thì giờ. Họ đã đề nghị là vợ tôi sẽ là người nuôi dưỡng 2 đứa bé, và yêu cầu tôi chia tài sản theo tỷ lệ 65% cho vợ tôi và 35% thuộc về tôi. Tôi đã viết thư trả lời là tôi không đồng ý về việc chia theo tỷ lệ nêu lên trong thư, nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa nhận được thư trả lời của họ.
Xin LS cho biết là nếu tôi không đồng ý chia tài sản theo tỷ lệ mà vợ tôi đã nêu lên trong thư, khi vụ này đưa ra tòa tôi sẽ được chia theo tỷ lệ nào" Tất cả tài sản hiện tại hoàn toàn đứng tên của cá nhân tôi.
*
Trả lời: Trong vụ AM & MM [2005] FamCA 443. Trong vụ đó, cả hai vợ chồng bây giờ đã 50 tuổi. Họ kết hôn vào năm 1995 và có với nhau 2 đứa con, sinh năm 1995 và năm 1997. Trước khi kết hôn, người vợ đã có 3 đứa con riêng, tất cả đều dưới 18 tuổi. Họ đã ly thân vào tháng 6 năm 2002, và hai đứa con sống chung với người mẹ.
Vào lúc kết hôn, người vợ làm việc cho ngân hàng, còn người chồng là một giáo chức. Vào lúc kết hôn, người vợ có một căn nhà và cả hai vợ chồng đã sống chung 3 năm đầu tiên trong căn nhà của người vợ.
Vào lúc kết hôn, người chồng có một tài sản gọi là R1, căn nhà này đã “trả dứt nợ” [unencumbered]. Người chồng còn có một nửa căn nhà với người anh gọi là R2. Căn nhà này cũng đã được trả dứt nợ.
Ngoài ra, 2 năm trước ngày kết hôn, người chồng còn đặt cọc $36,000 và mượn ngân hàng thêm $128,000 để mua căn nhà L. Ông ta cũng mượn tiền ngân hàng để mua thêm căn nhà N. Tổng số tiền mà ông ta còn thiếu ngân hàng cho 2 căn nhà này là $263,000.
Riêng về quỹ hưu bổng, vào lúc kết hôn, người chồng có khoảng $49,000, và tiền ông ta để dành trong ngân hàng là $26,000.
Ngay sau lúc ly thân, người chồng đã bán 2 căn nhà L và N. Nhưng ông ta đã trả cho người em $400,000 để lấy luôn nửa căn nhà R2.
Vào lúc xét xử tòa đã tổng kết tài sản của hai bên như sau: Người chồng có tất cả là $1,962,193 [sau khi đã trừ nợ]. Riêng tài sản của người vợ tổng cộng là $290,444 [sau khi trừ nợ].
Tổng số tài sản chung của cả 2 vợ chồng tính ra là $2,252,637.
Tòa bèn đưa ra phán quyết là người vợ sẽ được hưởng 36% trên tổng số tài sản, và người chồng sẽ được hưởng 64%. [Người vợ chỉ được hưởng 31% nhưng được cộng thêm 5% chiếu theo các yếu tố được quy định bởi điều 75(2) của Đạo Luật Gia Đình 1975. Tổng cộng là 36%]
Người vợ hưởng được tổng cộng là 36%. Vì thế, Tòa đã buộc người chồng phải trả thêm cho người vợ một số tiền là $520,000. Ngoài ra người vợ giữ nguyên những tài sản của bà hiện có. Người chồng bèn kháng án.
Tòa kháng án gia đình đã cứu xét lại toàn bộ vấn đề cùng các yếu tố liên hệ được quy định trong điều 75(2) của Đạo Luật Gia Đình.
Vấn đề được quy định theo điều 75(2) của Đạo Luật Gia Đình buộc tòa cần phải lưu ý khi đưa ra quyết định liên hệ đến vấn đề “cấp dưỡng cho người phối ngẫu” (spousal maintenance) là:
(a) tuổi tác và tình trạng sức khỏe của mỗi bên đương sự [the age and state of health of each of the parties].
(b) các nguồn tài chánh, lợi tức, tài sản của mỗi bên đương sự cùng năng lực thể chất lẫn tinh thần của họ về việc kiếm việc làm thích hợp [the income, property and financial resources of each of the parties and the physical and mental capacity of each of them for appropriate gainful employment].
(c) liệu mỗi bên đương sự có chăm sóc hoặc kiểm soát các đứa con hôn phối chưa được 18 tuổi hay không [whether either party has the care or control of a child of the marriage who has not attained the age of 18 years].
Các yếu tố quy định theo điều 75(2) rất nhiều và bao gồm nhiều vấn đề khác biệt nhau, chẳng hạn như tòa sẽ xem xét liệu có bên đương sự nào đang phải chăm sóc cho những người khác không. Hoặc các bên đương sự có được quyền nhận trợ cấp của chính quyền hay không. Hoặc về khả năng của mỗi bên đương sự liên hệ đến việc theo học hoặc tham dự các khóa huấn luyện để tìm kiếm việc làm tốt hơn và dễ dàng hơn. Hoặc thời gian vợ chồng chung sống với nhau và liệu việc chia tay có ảnh hưởng đến lợi tức hay không. Hoặc liên hệ đến việc cấp dưỡng cho các đứa trẻ và khả năng của bên đương sự phải trả tiền cấp dưỡng, cùng tất cả các yếu tố khác mà tòa nhận thấy là cần thiết để cứu xét khi đưa ra quyết định phân chia tài sản.
Tòa đã dựa và thời gian chung sống của 2 vợ chồng, trách nhiệm của người vợ phải nuôi dưỡng 2 đứa bé, người chồng phải trả tiền cấp dưỡng cho 2 đứa con, cùng người chồng đã giúp các đứa con của người vợ trong thời gian sống chung. Cuối cùng Tòa đã đưa ra quyết định rằng người chồng sẽ được hưởng 67.5% và người vợ được hưởng 32.5% trên tổng số tài sản của 2 người.
Dựa vào luật lệ cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng việc LS của vợ ông đề nghị chia theo tỷ lệ 35% - 65% là một đề nghị không thể nào chấp nhận được. Trong trường hợp của ông, theo thiển ý của chúng tôi, vợ của ông sẽ nhận được chừng khoảng 40% trên tổng số tài sản.
Nếu ông còn thắc mắc, xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.