Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Cuộc sống của chúng tôi ở Phòng Thành thật êm đềm. Phong cảnh Phòng Thành thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình và người dân địa phương chất phác, tốt bụng, giầu lòng thương người. Tuy vốn liếng tiếng Hoa của tôi thật ít ỏi, nhưng nhờ học thuộc lòng một số câu, mồm miệng lại nhanh nhảu, nên được nhiều gia đình người Hoa thương, giúp đỡ rất tận tình. Tôi còn nhớ một câu Quan thoại tôi thuộc lòng thời gian đó, "Tráng lại ủa lỳ hối Trung Của, ủa xì xì hên chệt nỉ", có nghĩa, "Tương lai tôi rời xa Trung Quốc nhưng tôi luôn luôn nhớ ông /bà /cô /bác /anh /chị...". Mỗi khi tôi nói câu này, những người lớn tuổi hay đàn ông con trai thì vỗ tay tán thưởng cười nói vui vẻ; còn phụ nữ, nhất là các cô gái người Hoa thì đỏ mặt, ngượng ngùng, vì họ coi chữ "luôn luôn nhớ" hàm ý yêu đương trai gái.
Người dân Phòng Thành sinh sống bằng đủ thứ nghề, nhưng nghề tạo cho tôi nhiều thương tâm nhất là nghề "tả sẹc" (đập đá). Vì chảy qua Phòng Thành có một dòng sông lớn, vào mùa nước cạn, hai bờ sông tràn ngập các loại sỏi đủ cỡ to nhỏ. Người dân ra sông gánh sỏi đem về chất đống trước nhà, rồi vợ chồng, con cái, bất cứ ai, hễ có thì giờ là ra ngồi đập những viên đá sỏi vụn ra thành từng miếng nhỏ gọi là đá răm. Sau đó, những viên đá răm được đổ gọn thành từng thước khối, chờ người ở công xưởng lái xe đến đo mua, trả tiền, rồi chở đi.
Kỹ thuật đập đá ở Phòng Thành rất đơn giản và nguy hiểm. Nếu đá sỏi loại lớn, thì người đàn ông trong gia đình dùng những chiếc búa tạ đập ra thành những miếng nhỏ. Sau đó, ông bà già, phụ nữ, trẻ em trong gia đình, dùng những chiếc búa nhỏ đập cho những miếng đá đó thành đá răm, để dùng trong các công trình xây cất.
Thù lao cho nghề đập đá rất rẻ mạt. Nhưng hầu hết những người đập đá đều là người già, phụ nữ và trẻ em. Họ là những người không có một tay nghề căn bản nào để có thể kiếm ra tiền, cả ngày không biết làm gì, trong khi cuộc sống của gia đình thì quá thiếu thốn, nên bất cứ khi nảo rảnh rỗi, là họ phải đập đá để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.
Những người dân đập đá đều không có găng tay, không có kiếng an toàn. Họ phải dùng những tấm vải rách đủ màu, đủ loại quấn kín chân tay, mặt mũi, chỉ để hở có hai con mắt. Vì vậy, có rất nhiều người bị tai nạn, đập búa vào các ngón tay, hay miểng đá văng vào mắt, vào mặt, vào tay chân... trong đó có những trường hợp trầm trọng bị mù.
Khi viết những dòng chữ này, tôi lại bùi ngùi nhớ đến Phòng Thành, hình ảnh của những con hẻm nhỏ chạy dài với những hàng cây, và trước mỗi căn nhà là những đống đá say ngủ, những người làm nghề "tả sẹc" âm thầm, cô đơn, thui thủi một mình, bất kể sáng tối, trưa chiều, mưa nắng, trong những bộ quần áo, giẻ rách nhiều hơn vải, và bộ mặt bịt kín, chỉ hở có hai con mắt. Tôi đã từng đến thăm những gia đình làm nghề "tả sẹc", cảm khái chứng kiến những bà cụ, ông cụ, những em học sinh... chân tay, mặt mũi bị sẹo hoặc bị tàn tật chỉ vì đập đá.
Tuy chỉ mới sống ở Phòng Thành có vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã thấy rõ sự khủng hoảng trai thừa gái thiếu tại Trung Hoa, hậu quả cuả chính sách 1 con cho một gia đình được áp dụng rộng rãi tại Trung Hoa trong suốt nhiều thập niên. Thường cứ vào buổi chiều, đàn ông con trai độc thân tụ tập trước cửa nhà trò chuyện, hoặc lang thang đi dạo phố để được đắm đuối ngắm vuốt trong tuyệt vọng những cô gái Trung Hoa thắt bím, đi nhanh như chạy. Bề ngoài những người đàn ông con trai vui vẻ cười đùa, nhưng trong thâm tâm, hầu hết đều lo nghĩ đến chuyện tìm kiếm một người phụ nữ làm vợ. Vì sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ quá cao, cộng tình trạng con gái ở Phòng Thành đổ xô ra thành thị làm việc, nên lấy vợ tại Phòng Thành thời đó vừa tốn kém vừa rất vất vả cho người con trai. Ngoài những khó khăn trong việc kiếm được vợ, họ còn gặp khó khăn trong tài chánh. Tôi đã nghe nhiều chuyện, tình duyên của họ nửa đường đứt gánh vì tiền bạc không có, nhiều ông bố cả đời chỉ lo chắt bóp dành dụm để có đủ tiền lo đám cưới cho con mà cũng không đủ, dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch trong gia đình, ngoài xã hội. Thường, sau mỗi cuộc tình dang dở như vậy, người con trai đều bỏ Phòng Thành đi Nam Ninh, Quảng Châu hay Thượng Hải... nói là đi "kiếm tiền", "đổi đời", nhưng hầu hết là đi để tìm quên lãng, và rồi vĩnh viễn không thấy trở lại.
Trong thời gian này, gia đình bà Trà và anh Tiến, anh Thu thường xuyên gửi thư cho tòa đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh, cũng như gia đình ở Mỹ để một mặt xin nhập cảnh Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị, mặc khác xúc tiến hồ sơ bảo lãnh vô Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình.
Ngày 28 tháng 3 năm 1979, bà Trà nhận được thư của tòa đại sứ Mỹ chính thức từ chối đơn xin vô Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị. Thư của tòa đại sứ Mỹ xác nhận, chương trình đặc biệt cho người Việt được nhập cảnh Mỹ theo diện tỵ nạn chỉ dành cho người Việt đang sống tại các trại tỵ nạn ở các quốc gia vùng Đông Nam Á và Hồng Kông. Thư cũng khẳng định trách nhiệm của Trung Quốc là định cư người tỵ nạn Việt Nam, trong đó có 200 ngàn người Việt gốc Hoa bị cộng sản Việt Nam cưỡng bức hồi hương, chứ Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn đến các quốc gia đệ tam. Nói cách khác, Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ là quốc gia đệ tam, phải có bổn phận chia xẻ gánh nặng tỵ nạn với Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng thư của tòa đại sứ Mỹ cho biết, biện pháp duy nhất để gia đình bà Trà có thể nhập cảnh vô Mỹ là đoàn tụ gia đình. Và điều này tuỳ thuộc vào khả năng tài chánh, mối quan hệ của thân nhân bà Trà ở Hoa Kỳ, chiếu theo luật di trú của Mỹ.
Kèm theo thư là một xấp giấy tờ liên quan đến luật di trú, thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ... Như vậy là con đường có thể rời Trung Quốc chớp nhoáng để đi Mỹ theo diện tỵ nạn của gia đình bá Trà đã bị bế tắc. Còn con đường đến Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình thì rất nhiêu khê, phải mất ít nhất là 2 năm, theo lời trình bầy của cán bộ Ngô.
Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy. Ngay từ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi đặt chân đến Trung Quốc được 2 tháng, gia đình tôi ở Úc đã nhờ Hội Tỵ Nạn Đông Dương gửi thư cho ông Michael MacKellar, tổng trưởng di trú, xin cứu xét cho nhập cảnh trên tiêu chuẩn tỵ nạn. Tuy nhiên đơn xin đã bị bác. Trong thư trả lời, bộ di trú Úc cũng khẳng định, thỏa thuận giữa Úc và Trung Hoa vào tháng 10 năm 1976 chỉ cho phép thường trú nhân hay công dân Trung Quốc được phép nhập cảnh Úc theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình. Và thời gian để đi Úc theo tiêu chuẩn này cũng mất ít nhất 2 năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy những lời giải thích của ông Phùng, ba của Liên thật chính xác. Thời gian phải chờ đợi 2 năm trời để được đến Mỹ, Úc, đối với chúng tôi quá khủng khiếp. Vì vậy, chúng tôi bàn đến giải pháp "vượt biên" tới Hồng Kông qua ngả Bắc Hải, theo như sự gợi ý của ông Phùng. Vấn đề được đặt ra lúc đó là làm sao chúng tôi có thể đến được Bắc Hải khi ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có. Khó khăn nữa là lấy tiền đâu ra để chung cho chủ tàu" Số tiền cho một người đi từ Bắc Hải đến Hồng Kông lúc đó là 300 đến 500 đồng "nhân dân tệ" (tiền Trung Cộng). Đây là số tiền khá lớn, tương đương lương một năm của một công nhân viên chức Trung Cộng.
Ngoài ra, chúng tôi còn một khó khăn nữa là ai đi ai ở" Cá nhân tôi tuy mình đi một đường, nhưng lâu nay sống chung trong một mái gia đình nên cũng muốn cùng nhau chia sẻ hoạn nạn từ Phòng Thành đến Hồng Kông. Còn lại 14 người trong gia đình bà Trà, phần đông là đàn bà, con gái và con nít, không phải ai cũng chấp nhận phiêu lưu vượt biển sang Hồng Kông. Với những người này, thời gian chờ đợi 2 năm để được đi Mỹ an toàn bằng phi cơ vẫn là thượng sách. Riêng hai cha con anh Tiến và anh Thu vì đã vô chung một hộ với gia đình bà Trà nên cũng có tình gia đình, chẳng thể một sớm một chiều quyết định bỏ gia đình bà Trà lại để đi Hồng Kông.
Sau thời gian bàn bạc, chúng tôi tạm thời đi tới phương hướng, bà Trà, ông em của bà Trà cùng đàn bà và con nít khoảng chục người sẽ ở lại Trung Quốc chờ đợi giấy bảo lãnh chính thức vô Mỹ. Còn lại người con trai của bà Trà, hai người con trai của ông em bà Trà là Bình, Hải, và hai cha con anh Tiến, anh Thu, cùng với tôi sẽ tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Tiền bạc trả cho chủ tàu thì người nào đi, người đó lo. Tôi được mọi người cử đi Bắc Hải dò đường đi nước bước, tìm hiểu tình hình, và móc nối với chủ tàu. Trước khi đi, tôi viết vội lá thư gửi cho gia đình ở Úc, trình bầy hoàn cảnh khó khăn cùng quyết định của mình, và yêu cầu gia đình gửi gấp tiền sang để tôi trả tiền tàu, vượt biên sang Hồng Kông.
Thời gian đó, có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn về ở Đông Hưng, Phòng Thành một thời gian, rồi bị đẩy về nông trường. Tất cả những người đó nhờ được sống trong chế độ Miền Nam tự do nên không một ai muốn ở lại Trung Cộng. Vì vậy, vượt biên sang Hồng Kông là con đường duy nhất họ chọn lựa để có thể tìm đến miền đất hứa. Những người bạn tôi quen ở Đông Hưng, Phòng Thành, như anh Vũ Quang Phong, Diệp Đức Tuấn, hai chị em Quan Trọng Hà, Quan Trọng Du, Liên, Ngọc... đều khuyên tôi vượt biên sang Hồng Kông. Nhưng khi đó, tôi còn tin tưởng vào con đường đi chính thức nên thờ ơ trước những lời khuyên của họ. Bây giờ khi con đường đi chính thức bị bế tắc, tôi cần tìm đến họ thì không biết họ ở đâu. Riêng ông Phùng lúc đó tôi cũng đã mất liên lạc nên tôi đành lên đường đi Bắc Hải một mình.
Trước khi đi, tôi lo ngại không biết có nên xin phép cán bộ Ngô không. Tôi có hỏi anh Tiến và anh Thu. Cả hai anh nói, nên xin phép, nhưng chỉ nói với cán bộ Ngô là đi Bắc Hải thăm bạn, chứ không nên nói đi tìm đường vượt biên.
Chiều hôm đó, tôi ghé chiêu đãi trạm, xin gặp cán bộ Ngô. Người tuỳ phái dắt tôi vô phòng khách chờ. Khoảng 5 phút sau cán bộ Ngô bước vô, đon đả chào hỏi. Tôi đi thẳng vào vấn đề:
- Thưa hôm nay tôi đến xin phép cán bộ cho tôi đi Bắc Hải thăm người bạn.
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước "cộng hòa nhân dân" Trung Hoa là nước tự do. "Đồng chí" có có quyền đi bất cứ nơi đâu "đồng chí" muốn...
Tôi rụt rè:
- Thưa cán bộ, như vậy tôi có cần giấy phép đi đường gì không"
Cán bộ Ngô cười lắc đầu:
- Tôi đã nói với "đồng chí" là "đồng chí" có quyền đi bất cứ nơi đâu "đồng chí" muốn thì tại sao lại cần phải có giấy phép"
Nghe vậy tôi thở dài như trút được gánh nặng. Sự thực, tôi cũng hiểu, trong chế độ cộng sản Trung Hoa, "mỗi người dân là một người công an", nên việc kiểm soát người lạ chặt chẽ và khôn ngoan hơn Việt Cộng nhiều. Giữa cả biển người đông hàng tỷ, nhưng quả thật "muôn người như một", từ quần áo, giầy dép, cách ăn nói, nếp suy nghĩ, sở thích, cá tính... của cả tỷ người Trung Hoa đều giống nhau theo những khuôn phép nhất định, khiến bất cứ người lạ nào đến Trung Quốc đều cảm thấy lạc lõng và bị nhận diện một cách dễ dàng. Vì vậy, đi giữa xã hội đó, có giấy phép hay không có giấy phép đều không thành vấn đề, vì tôi vẫn bị cả một mạng lưới "công an nhân dân" theo dõi, giám sát khắp mọi nơi, mọi lúc.
Tôi cảm ơn cán bộ Ngô, rồi tính đứng dậy ra về thì cán bộ Ngô dơ tay ngăn lại và nói:
- "Đồng chí" lên Bắc Hải cần phải cẩn thận, vì ở nơi đó có rất nhiều cán bộ Việt cộng trà trộn với thuyền nhân đi từ Việt Nam sang. Chúng tôi tôn trọng quyền tự do đi lại của "đồng chí" nhưng chúng tôi cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho "đồng chí" khi nào "đồng chí" còn trên lãnh thổ của nước "cộng hòa nhân dân" Trung Hoa.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa cán bộ, chuyện đó có thật sao"
Cán bộ Ngô gật đầu:
- Nước Trung Hoa chúng tôi có 50 triệu Hoa kiều hiện sinh sống trên khắp bề mặt địa cầu, nên chúng tôi biết rất rõ tầm quan trọng của chính sách Hoa vận tại hải ngoại. Cộng sản Việt Nam cũng hiểu rõ điều này, nên việc họ cài cán bộ vào thuyền nhân Việt Nam là điều chắc chắn phải có. Vì vậy, khi "đồng chí" lên Bắc Hải, chúng tôi luôn luôn có người theo sát để bảo vệ, nhưng "đồng chí" cũng cần phải cẩn thận.
Nói xong, không cần tôi trả lời, cán bộ Ngô đứng dậy dơ tay bắt và nói tiếp:
- Tôi nghe nói, việc xuất ngoại sang Úc của các "đồng chí" đang gặp khó khăn, nếu chờ đoàn tụ gia đình thì phải mất vài năm. Vì vậy, khi nào các "đồng chí" muốn đi sang Hồng Kông để hợp thức hóa tư cách tỵ nạn, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ...
Nói đến đó, cán bộ Ngô dừng lại một chút rồi thân mật vỗ vai tôi nói tiếp, chậm rãi và nhấn mạnh:
- Dĩ nhiên là giúp đỡ... một cách không chính thức.
Tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Trong vài phút đồng hồ tôi không hiểu cán bộ Ngô nói vậy là có ý gì. Vì vậy, tôi im lặng, đi theo cán bộ Ngô ra cửa. Tại cửa, cán bộ Ngô bắt tay tôi một lần nữa rồi chúng tôi chia tay...
Trên đường từ chiêu đãi trạm về nhà, tôi băn khoăn không hiểu lời của cán bộ Ngô là một lời "cảnh cáo khéo" ý đồ vượt biên sang Hồng Kông của chúng tôi, hay thực sự ông muốn giúp đỡ chúng tôi... Tôi quyết định đem điều đó bàn bạc với anh Tiến và anh Thu xem thế nào. (Còn tiếp...)