Pháp Luật Phổ Thông – LS Lê Đình Hồ
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Bà Trần T.H): Cách đây hơn 2 tuần lễ con tôi, như thường lệ, xin phép đến chơi với bạn vào dịp cuối tuần. Tuy nhiên vào ngay tối Thứ Bảy đó cháu đã gọi điện thoại về nhà báo cho biết là cháu đang bị cảnh sát bắt giữ.
Chúng tôi có đến trạm cảnh sát và biết được rằng cháu bị cáo buộc tội bào chế ice. Cháu đã ra tòa vào sáng Chủ Nhật hôm sau nhưng tòa đã bác đơn xin tại ngoại của cháu. Hiện cháu đang bị giam giữ chờ ngày xét xử.
Cháu năm nay 24 tuổi, học xong trung học và trước khi bị bắt cháu phụ giúp bán hàng trong một tiệm bán điện thoại di động.
Xin Ls cho biết nếu cháu bị kết tội thì hình phạt sẽ như thế nào" Có nặng lắm không"
*
Trả lời: Điều 24(1) “Đạo Luật Buôn Bán và Lạm Dụng Ma Túy” (Drug Misuse and Trafficking Act 1985) quy định rằng: “Người chế tạo hoặc sản xuất, hoặc cố ý tham dự vào việc chế tạo hoặc sản xuất ma túy là có tội về sự vi phạm này. Hình phạt tối đa đối với sự vi phạm này là 2,400 đơn vị tiền phạt [tương đương với $264,000] hoặc ở tù 18 năm, hoặc cả hai”(A person who manufactures or produces, or who knowingly takes part in the manufacture or production of, a prohibited drug is guilty of an offence. The maximum penalty for an offence is a fine of 2,400 penalty units or imprisonment for 18 years, or both).
Trong vụ Hudson v Regina [2009] NSWCCA 59 “Đồng bị cáo Griffiths sống tại vùng Dulwich Hill. Bangs và Campbell sống tại phía bắc NSW và bị cáo sống gần Wyong. Griffiths biết cách chế tạo các loại thuốc bất hợp pháp và vai trò của các phạm nhân kia là trợ giúp cho đương sự” (The co-offender Griffiths lived in Dulwich Hill. Bangs and Campbell lived in northern NSW and the accused lived near Wyong). Griffiths knew how to manufacture illegal drugs and the role of the other offenders was to assist him).
“Bị cáo cung cấp nhà của đương sự như là nơi để các hoá chất được gởi đến, bị cáo cho phép tên của công ty được để ở trên hộp thư cho thấy rằng công ty hóa chất đặt hành dinh ở đó, bị cáo nhận các hóa chất gởi đến đó với một tên giả và cho phép Griffiths xử dụng máy điện thư và mày điện toán để liên lạc với các công ty hoá học và các công ty cung cấp hoá chất. Griffiths có công thức pha chế để bào chế ephedrine và biết cách bào chế Methylamphetamine từ ephedrine. Công thức bào chế đó được xét thấy trong nhà của bị cáo” (The accused provided his house as a place for the chemicals to be sent, he allowed the name of a company to be placed on his letterbox to give appearance that a chemical company had its headquaters there, he received chemicals sent there in a false name and he allowed Griffiths to use his fax machine and computer to communicate with chemical companies and chemical suppliers. Griffiths had a recipe for the manufacture of ephedrine and how to manufature methylamphetamine from ephedrine. That recipe was found in the accused’s premises). [“ephedrine: loại bột màu trắng không mùi được lấy từ các cây thuộc giống Ephedra” (white odorless powdered from plants of the genus Ephedra)].
“Trong suốt tiến trình xét xử cả Campbell lẫn Bangs đã đưa ra bằng chứng có lợi cho phía công tố. Griffiths, ngược lại, đã đưa ra bằng chứng có lợi cho bị cáo hậu thuẫn việc bị cáo khai rằng thực sự họ muốn bào chế thuốc Viagra và thuốc kiêng ăn để bán tại Trung Quốc” (During the course of the trial Campbell and Bangs both gave evidence for the prosecution. Griffiths, on the other hand, gave evidence for the defence supporting the claim of the accused that they were really interested in making Viagra and diet suppressants for sale in China).
Sau đó tất cả bị bắt và cuối cùng đã nhận tội. Bị cáo bị cáo buộc “tội toan bào chế ma túy, đó là ephedrine” (attempt to manufacture a prohibited drug, namely ephedrine), và “tội đồng lõa với Griffiths và các người khác để bào chế ma túy, đó là ephedrine” (conspire with Griffiths and others to manufacture a prohibited drug, namely ephedrine).
Griffiths bị tuyên án tổng cộng là 4 năm tù và bị buộc phải thụ hình tối thiểu là 3 năm.
Riêng bị cáo bị tuyên án 5 năm tù và bị buộc phải thụ hình tối thiểu là 3 năm. Bị cáo bèn kháng án vì cho rằng bản án quá nặng và không tương xứng so với Griffiths.
The Law: “Nguyên tắc tương xứng” (the parity principle” được đưa ra trong vụ Lowe v The Queen thừa nhận rằng sự công bằng tư pháp đòi hỏi, giữa những người đồng phạm, không nên có vết tích bất tương xứng phát sinh ra do sự cảm nhận về nổi đau đớn có thể biện minh được”
Thẩm Phán Dawson tuyên bố rằng: “sự khác biệt giữa các bản án phải vượt quá mức quy định một cách rõ ràng và yêu cầu sự can thiệp của tòa kháng án vì lợi ích của nền tư pháp” (the difference between the sentences must be manifestly excessive and call for the intervention of an appellate court in the interests of justice).
Bị cáo cho rằng “Griffiths là người được đào tạo thành dược sĩ. Bị cáo là người ít học và người có ít kiến thức chuyên môn. Griffiths là người rất thông minh, và có trình độ giáo dục cao” (Griffiths is a man who was a trained pharmacist. The accused is a man of little education and little intellectual training. Griffiths is a clever, and highly educated man).
Bị cáo cho rằng bản án dành cho bị cáo phải nhẹ hơn bản án của Giffiths vì điều đó sẽ phản ảnh được vai tro liên hệ của từng người trong sự vi phạm này.
Tuy nhiên, vị thẩm phán tọa xử đã tuyên bố rằng lẽ ra bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 5 năm, nhưng vì Griffiths đã nhận tội nên thời gian thụ hình của Griffiths được giảm xuống còn 3 năm. Vì thế, bị cáo cũng được hưởng theo.
Tòa so sánh tình trạng của bị cáo và Griffiths. Bị cáo được 60 tuổi vào lúc tuyên án, trong lúc đó Griffiths 72 tuổi.
Griffiths từng có nhiều tiền án hình sự. Năm 1957 bị kết tội ăn cắp và chỉ bị buộc phải giữ gìn tánh hạnh. Năm 1994 bị kết án về tội lừa đảo tại Brisbane và bị kết án 7 năm tù, tuy nhiên đã được phóng thích có điều kiện sau 2 năm thụ hình. Năm 2002 bị kết tội cố tình tham dự vào việc bào chế ma túy nhưng sau đó được Tòa Kháng Án Hình Sự hủy bỏ bản án.
Trong lúc đó bị cáo bị kết tội 24 lần gồm tội cung cấp ma túy vào năm 1987 bị tuyên án 5 năm tù và buộc phải thụ hình 3 năm. Năm 1993 bị cáo bị kết tội buôn bán ma túy và bị tù 12 tháng. Điều này cho thấy rằng tiền án của bị cáo là tồi tệ hơn Griffiths.
Cuối cùng Tòa Kháng Án Hình Sự đã tuyên bố giữ y án.
Dựa vào luật pháp và phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng tội trạng mà cháu phạm phải là một tội trạng hình sự nghiêm trọng vì hình phạt tối đa dành cho tội trạng này là 18 năm tù. Chúng tôi khó có thể cho bà biết được nếu cháu bị kết tội thì hình phạt sẽ như thế nào" Vì trong thư bà không cho chúng tôi biết số lượng ma túy mà cháu đã bào chế là bao nhiêu vào lúc cháu bị cảnh sát bắt.
Tuy nhiên, thời gian thụ hình dài hay ngắn, ngay cả trong trường hợp cháu bị kết tội, điều đó còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác chẳng hạn như tuổi tác, sức khoẻ, tình trạng gia đình, tiền án, và nhất là tình huống mà trong đó tội phạm đã xảy ra.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận hơn.