Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Trong chu kỳ của cuộc sống, người cao niên thường trở lại giai đoạn
phải lệ thuộc vào gia đình như đã có thời kỳ lệ thuộc vào cha mẹ
trong tuổi ấu thơ. Đó là vì khi tới tuổi cao, khả năng làm việc của
họ giảm bớt, lại nẩy sinh những bệnh liên hệ tới tuổi già, khiến
họ mất khả năng tự túc, tự tồn, thậm chí mất cả khả năng hiểu
biết.
Đây là một vấn đề mà các xã hội Đông và Tây phương có giải pháp
khác nhau mặc dầu có chung một mục tiêu là giúp đỡ người già trong
giai đoạn khó khăn nhất của đời họ.
Xin lần lượt xét về tình trạng người già trong hai xã hội này.
Xã Hội Tây Phương
Tại các xã hội Tây phương, điạ vị người già tuỳ thuộc vào khả năng
kiểm soát tài chánh. Khi có đủ điều kiện kinh tế, người già không lo
bị sống cô đơn với các chứng bệnh kinh niên. Họ có thể thuê mướn
những chuyên viên y tế để chăm sóc tại gia hoặc lựa chọn lối sống
tập thể trong các cơ sở chuyên chăm sóc người già với đầy đủ tiện
nghi y tế, vật chất.
Nhưng đó cũng là thiểu số. Còn phần đông người già với hạn hẹp tài
chánh phải nhờ vả hoặc gia đình thân thích hoặc các cơ quan chính
phủ, cơ sở cộng đồng, các tổ chức từ thiện.
Tại các quốc gia kỹ nghệ hoá, như Hoa Kỳ chẳng hạn, nhu cầu công ăn
việc làm đã khiến gia đình phân tán, trái ngược với tình trạng các
gia đình sinh sống gần gũi nhau trong các trang trại lớn vào đầu thế
kỷ 20. Do đó, đa số người già thường sống cô đơn trong ngôi nhà mà họ
đã tạo lập từ thuở trung niên. Con cái họ thường là ở xa, có khi
cách cả hàng ngàn cây số.
Thêm vào đó, đa số người già ở đây đều trải qua nhiều cuộc hôn nhân
trong đời, rất ít người sống cùng với người phối ngẫu nguyên thủy.
Con cái nhiều dòng, con ông con bà, con chúng ta, khó có sự đoàn kết
trong tình máu mủ ruột thịt.
Nhận thức được sự khó khăn này, chính phủ Mỹ đã lập ra chương trình
An Sinh Xã Hội, chương trình chăm sóc y tế miễn phí cho người già từ
65 tuổi sắp lên (Medicare). Chính phủ còn trợ cấp cho các chương trình
giúp đỡ người già do các cộng đồng địa phương thực hiện. Các cộng
đồng này điều hành nhiều trung tâm cao niên, cung cấp bữa ăn trưa với
giá rẻ cho người già, cung cấp vài dịch vụ y tế căn bản như khám sức
khoẻ, đo huyết áp, khám mắt, thử đường, cholesterol trong máu. Nhiều
trung tâm còn tổ chức các cuộc giải trí lành mạnh, như thể dục thể
thao, đi bộ, bơi lội, đi xe đạp, v.v.
Các trung tâm cao niên này đã tạo ra một môi trường làm vơi bớt nỗi cô
đơn của họ. Các bữa cơm tập thể cũng cung cấp cho họ những chất dinh
dưỡng căn bản hàng ngày. Một cuộc khảo sát về ích lợi của bữa ăn
tập thể đối với người cao niên cho thấy họ có khả năng hấp thụ
nhiều chất dinh dưỡng hơn người già dùng bữa ăn một mình ở nhà. Có
thể đây cũng là một yếu tố tâm lý chứng minh người già cần một môi
trường gia đình hay đoàn thể để tâm hồn được ổn định, đưa đến sự
cải thiện các chức năng cơ thể.
Tóm lại, ở Mỹ người già có thể vừa trông cậy vào sự giúp đỡ của
gia đình vừa dựa vào sự trợ giúp của chính phủ và cộng đồng xã
hội.
Người Già Ở Việt Nam
Ở các xã hội Đông phương như Việt Nam chẳng hạn, người già căn bản
là nương tựa vào gia đình trong giai đoạn chót của cuộc đời. Xã hội
Việt Nam chưa có những chương trình giúp đỡ người già hoặc có những
trung tâm cao niên được tổ chức chu đáo như ở Mỹ.
May mắn thay, người Việt Nam có truyền thống hiếu thảo đối với ông
bà cha mẹ. Người Việt nào cũng xem mình có bổn phận đền đáp công
lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghia mẹ như nước trong nguồn chẩy ra"
là điều tâm niệm của con dân Việt.
Do truyền thống tốt đẹp đó mà gia đình trở thành đơn vị gốc của xã
hội. Đơn vị đó tồn tại qua nhiều cuộc xáo trộn kinh tế, chính trị
của xã hội. Người già có một chỗ dựa nào đó trong cái đơn vị gốc
này.
Những người thiếu may mắn, không con cái, thì vẫn có thể nhờ vả bà
con nội ngoại.
Cũng do truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà cuộc sống chung giữa
người già và người trẻ dưới mái ấm một gia đình thường rất hài
hòa, ổn định. Trong xã hội Tây phương sự sống chung này không nhiều
vì mỗi bên đều muốn có sự riêng tư.
Người Già Việt Viễn Cư
Đối với người Việt định cư tại nước ngoài, quý vị cao niên vẫn còn
thừa hưởng cái truyền thống hiếu thảo của dân tộc. Các cụ vẫn còn
được con cái phụng dưỡng như hồi còn ở bên nhà. Tuy đã có các chương
trình trợ cấp của chính phủ, các cụ vẫn không chọn lối sống cô
độc, lẻ loi trong nhà người già.
Ngoại trừ khi quá yếu đau, sự hiện diện của các cụ còn là một lợi
ích cho con, đặc biệt cho cặp vợ chồng trẻ. Khi cả hai vợ chồng đều
đi làm thì các cụ trở thành quản gia cho họ. Khi họ có con nhỏ, các
cụ kiêm luôn việc giữ trẻ, đôi khi phụ trách cả công việc bếp núc.
Các cụ vui vẻ làm những công việc đó cho con cái mà không than phiền.
Sự xung khắc do khoảng cách tuổi tác ít khi xẩy ra, chỉ trừ một số
rất nhỏ trong đó hoặc dâu, rể đã tiêm nhiễm nặng chủ nghĩa cá nhân u
Mỹ. Trong trường hợp này, các cụ tuy bị khổ tâm không ít, nhưng vì
thương cháu nên không nỡ đoạn tuyệt với dâu rể. Sự khổ tâm, chịu đựng
này thường đưa đến những hậu quả tâm thần trầm trọng.
Một số các cụ cảm thấy cô đơn vì không có bạn đồng trang lứa để
hàn huyên, trao đổi. Các cụ không thích đến các trung tâm cao niên để
giải trí như người địa phương, đôi khi vì thiếu phương tiện di chuyển.
Mà các trung tâm này cũng chỉ có ở các thành phố có đông người
mình định cư, và số người tham dự vẫn ít oi.
Nói tóm lại, môi trường thích hợp nhất đối với các cụ vẫn là gia
đình trong đó các cụ sống thoải mái giữa đông đảo con cháu. Tâm lý
chung là các cụ thường chọn ở với con trai vì theo quan niệm Đông
phương, dâu là con mà rể là khách, các cụ thà nhờ vả nương tựa con
trai và con dâu hơn.
Quan niệm này khác với quan niệm Tây phương, đặc biệt là người Mỹ.
Họ cho rằng con trai chỉ là con cho tới khi nó lấy vợ, còn con gái
thì là con của họ suốt đời (A son is a son until he gets a wife, a
daughter is a daughter all her life). Quả thật khi người con trai Mỹ lấy
vợ thì đương sự đặt trọng tâm sinh hoạt vào nhà vợ, tách khỏi cha
mẹ trong nhiều khía cạnh của cuộc sống.
Nhưng dù ở với con nào, các cụ ta vẫn được sống thoải mái hơn các
cụ Mỹ cùng hoàn cảnh. Lý do là dù hội nhập vào xã hội Mỹ, người
mình vẫn còn giữ truyền thống tốt đối với cha mẹ.
Sống dưới mái ấm đại gia đình, các cụ ta hưởng được sự chăm sóc cả
vật chất lẫn tinh thần. Yếu tố tinh thần lại có ảnh hưởng không ít
tới tới sức khoẻ thể xác của các cụ. Cho nên truyền thống phụng
dưỡng cha mẹ không những tốt đẹp về phương diện văn hoá mà còn tốt
về phương diện kinh tế bằng cách giảm thiểu tốn kém về các dịch vụ
y tế dành cho các cụ.
Trong các gia đình Việt Nam còn giữ được nền nếp cổ truyền, các cụ
do tuổi tác được con cháu trọng nể, đương nhiên trở thành những nhân
vật tiêu biểu cho trật tự và tình đoàn kết của các thành phần trong
gia đình. Các cụ giữ vai trò xúc tác cho mọi hoạt động của các con
cháu nhắm thăng tiến, hướng thượng và xây dựng hạnh phúc cho mọi
người. Vai trò của các cụ trong việc tiếp tay giáo dục trẻ con không
bị hạn chế, chống đối như các cụ già trong xã hội u Mỹ.
Tuy nhiên, tình trạng này trong tương lai gần sẽ có một vài biến
chuyển. Đám trẻ được trường học dạy cho lối suy tư và hành động tự
lập đối với gia đình thường trở nên ương ngạnh. Chúng xem các cụ
thuộc thế hệ đã qua, không phù hợp với lý tưởng tự do của chúng.
Cho nên nếu các cụ không cởi mở mà quá khắt khe theo lối sống cổ
truyền thì e rằng sớm muộn cũng mất đi mối quan hệ tình cảm với lũ
trẻ.
Các cụ cần thích nghi với hoàn cảnh mới, với sự hội nhập vào xã
hội mới, tìm hiểu tâm tư, ước mơ, lối suy nghĩ của tuổi trẻ, sẵn
sàng chấp nhận những khác biệt, đặt trọng tâm vào tình thương. Có
thế các cụ mới hòa đồng được với sự đổi đời do hoàn cảnh tạo nên.
Mà có hòa đồng, thích nghi thì các cụ mới bảo vệ được sức khoẻ
tâm thân, nắm được bí quyết của tiến trình an hưởng tuổi vàng.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
www.bsnguyenyduc.comhttp://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos