Hoa thịnh đốn.- Tin của hãng Associated Press cho biết rằng tỷ lệ thất nghiệp trên toàn quốc Mỹ là 6 phần 100 theo thống kê Bộ Lao Động, nhưng những người thất nghiệp không tìm thấy công ăn việc làm cho rằng tỷø lệ thất nghiệp thật sự phải cao hơn. Các chuyên viên cho rằng họ đã suy tính đúng.
Các con số về thất nghiệp mà chính phủ tìm biết hằng tháng, gồm có số người trong 55.000 gia đình, số ngườøi ghi tên tìm việc trong 4 tuần lễ cuối cùng gần nhứt. Các con số đó không kể những người thất nghiệp trở lại học đườøng hoặc những ngườøi đã tìm được việc làm bán thời gian. Các con số đó cũng không kể những ngườøi không tìm được việc làm, đã tự mở cơ sở kinh doanh làm cho chính mình. Và nhứt là những kẻ không tìm thấy việc làm, chán nản không còn tới ghi tên để xin tìm việc làm nữa.
Theo các chuyên viên thì cộng tất cảø các con số đó lại thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ là 10 phần 100 của tổng số công nhân trong nướùc.
Theo ông Jared Bersnstein của Viện Chính Sách Kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp không phản ảnh tất cả sự thật. Hồi tháng Tư, có 8,8 triệu người thất nghiệp, con số đó không kể 4,8 triệu người làm việc bán thời gian, nhưng muốn làm việc toàn thời gian, số người đó nhiều hơn năm rồi 600.000 người.
Ngoài ra, cuộc kiểm tra cũng cho thấy có 1.4 triệu ngườøi muốn làm việc trong năm rồi nhưng vì không tìm được việc làm trong 4 tuần qua, đã không được xem như thất nghiệp. Trong số đó có 437.000 ngườøi thất vọng nên bỏ cuộc. Số người đó cao hơn số người thuộc loại đó hồi năm ngoái. Theo thể thức thống kê của chính phủ thì những ai bỏ cuộc, bị xem như không còn thuộc thành phần công nhân nữa.
Chính phủ cũng thường công bố các con số về số ngườøi thất nghiệp. Hồi tháng Tư tỷ lệ thấùt nghiệp là 9,8 phần 100, thấp hơn hồi tháng Giêng lúc đó là 11 phần 100. Hồi tháng Mười năm 2000, tỷø lệ đó là 6.3 phần 100 trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa kỳ thường được xem như ổn định ởø mức 3,9 phần 100.
Các con số về thất nghiệp mà chính phủ tìm biết hằng tháng, gồm có số người trong 55.000 gia đình, số ngườøi ghi tên tìm việc trong 4 tuần lễ cuối cùng gần nhứt. Các con số đó không kể những người thất nghiệp trở lại học đườøng hoặc những ngườøi đã tìm được việc làm bán thời gian. Các con số đó cũng không kể những ngườøi không tìm được việc làm, đã tự mở cơ sở kinh doanh làm cho chính mình. Và nhứt là những kẻ không tìm thấy việc làm, chán nản không còn tới ghi tên để xin tìm việc làm nữa.
Theo các chuyên viên thì cộng tất cảø các con số đó lại thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ là 10 phần 100 của tổng số công nhân trong nướùc.
Theo ông Jared Bersnstein của Viện Chính Sách Kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp không phản ảnh tất cả sự thật. Hồi tháng Tư, có 8,8 triệu người thất nghiệp, con số đó không kể 4,8 triệu người làm việc bán thời gian, nhưng muốn làm việc toàn thời gian, số người đó nhiều hơn năm rồi 600.000 người.
Ngoài ra, cuộc kiểm tra cũng cho thấy có 1.4 triệu ngườøi muốn làm việc trong năm rồi nhưng vì không tìm được việc làm trong 4 tuần qua, đã không được xem như thất nghiệp. Trong số đó có 437.000 ngườøi thất vọng nên bỏ cuộc. Số người đó cao hơn số người thuộc loại đó hồi năm ngoái. Theo thể thức thống kê của chính phủ thì những ai bỏ cuộc, bị xem như không còn thuộc thành phần công nhân nữa.
Chính phủ cũng thường công bố các con số về số ngườøi thất nghiệp. Hồi tháng Tư tỷ lệ thấùt nghiệp là 9,8 phần 100, thấp hơn hồi tháng Giêng lúc đó là 11 phần 100. Hồi tháng Mười năm 2000, tỷø lệ đó là 6.3 phần 100 trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa kỳ thường được xem như ổn định ởø mức 3,9 phần 100.
Gửi ý kiến của bạn