Sau này mỗi khi nhớ lại, ông đã gọi người lính Hoa kỳ này là một đứa con nít.
Thông cáo bổ nhiệm đầu tiên cho nội các của ông Bush ngay tại hội trường nhóm họp gọn tại Crawford, Texas, ông Bush đã mô tả Powell, 63 tuổi, như một người anh hùng của Hoa kỳ, một người gương mẫu của Hoa kỳ và một chuyện truyền kỳ cho dân Hoa kỳ.
Với sự phê chuẩn của Thượng viện Hoa kỳ, theo lịch sử ông Powell sẽ là một người da đen đầu tiên dẫn đầu về ngoại giao của Hoa kỳ. Mẹ ông Powell là một người thợ may, cha ông Powell là một thư ký trông coi về việc đóng và gửi các kiện hàng, gia đình của ông Powell đã rời bỏ Jamaica, một thuộc địa của Anh ngày xưa, các năm 1920s. Ông Powell đã từng làm cố vấn cho ba đời tổng thống của Hoa kỳ.
Cả hai đã rưng lệ khi Bush đã ngỏ lời giới thiệu - tân tổng thống Bush đã tuyên bố : “Tôi biết không còn ai hơn nữa về tiếng nói và bộ mặt ngoại giao của Hoa kỳ như Colin L. Powell hiện nay.”
“Thiệt quá cảm động bởi vì tôi thán phục Colin Powell. Tôi thích câu chuyện nói về ông ta… Đúng là lúc tuyệt hảo để ông ta gánh lấy công việc tuyệt vời này,” theo như lời của ông Bush đã nói với báo chí vào lúc sau này, khi ông, Powell và Tân Phó Tổng Thống Dick Cheney ngồi vào bàn ăn bánh sandwich kẹp phó mát với thịt ngay tại trang trại của ông Bush ở Texas.
Quốc tế đã biết đến Powell qua cuộc hành quân “Storm Desert” (Sa mạc giông bão) của quân đội Hoa kỳ trong chiến trận vùng vịnh năm 1991, khi Hoa kỳ cho liên quân hợp tác với quân đội của các quốc gia đồng minh đẩy lực lượng quân đội của Iraq ra khỏi Kuwait, một vùng có trữ lượng dầu mỏ lớn của thế giới.
Trong nhiệm kỳ công tác thứ hai tại Việt Nam trước đây, ông Powell đã được thăng tướng và trở thành Chủ tịch cho Bộ Tham Mưu Liên Quân của Hoa kỳ để viết lại kinh nghiệm khó quên “War should be the politics of last resort” (Chiến tranh là phương sách cuối cùng của những đường lối chính trị).
Lời kết luận quá quen thuộc này đối với tướng Powell giải thích tại sao ông tướng bốn sao đã hồi hưu chấp nhận lời mời của Tân Tổng Thống George Bush để giữ chức thứ trưởng ngoại giao của Hoa kỳ : Nếu như quân sự là phương sách cuối cùng của Hoa kỳ, vậy thì ngoại giao phải đi trước tiên.
Nhưng người đã từng biết rõ Đại tướng Powell, họ không lấy làm lạ về sự tấn phong này.
Có một trường hợp được hỏi, có phải mầu da của Đại Tướng Powell đã giúp hay có liên hệ nào đó với binh nghiệp của ông, một vị sĩ quan đồng liêu của đại tướng từng trả lời: “Powell hẳn nhiên sẽ thành công, nếu ông ta còn trẻ.”
Duyệt lại hồi ký của Đại Tướng Powell “My American Journey” ra năm 1996, nhà nghiên cứu Eliot Cohen, giáo sư của trường John Hopskin chuyên về quốc tế tân tiến học, đã viết bình phẩm như “Nhà đại tướng Powell là một ông tướng có tài khôn khéo về chính trị sau tướng Dwight D. Eisenhower”.
Song nhà đại tướng Powell đang gặp sự hoài nghi về cái lối nhìn của đại tướng này trong vai trò của Hoa kỳ trên thế giới, sự bất đắc dĩ phải dùng hay đe dọa bằng một lực lượng quân sự khổng lồ của Hoa kỳ và có ý khinh khi những gì trong cuốn sách của ông đã viết ra và gọi là những thứ đó là sự kỳ lạ của chiếc thước tính log (slide-rule) và những nhà suy nghĩ sâu xa cho rằng có thể lầm lẫn một lần nữa y như cuộc chiến tại Việt Nam. Một chiến cuộc mà một sĩ quan VNCH đã chụp chung với ông tấm hình đứng trước chiếc máy bay L-19 trên sân bay dã chiến của tiền đồn Plateau J tại miềân cao nguyên, viên sĩ quan này sau đó đã bị giết ngay vì tấm hình này sau khi bị bắt.
Khi làm chủ tịch cho các tư lệnh liên quân dưới các thời Tổng thống Bush (người cha) và Clinton, Đại Tướng Powell đã đặt câu hỏi như mạng sống của lính của Hoa kỳ có đáng để giải phóng Kuwait thoát ra khỏi Iraq không, nhà đại tướng đã chống lại sự lật đổ Saddam Hussein, tranh cãi chống lại việc can thiệp của Hoa kỳ vào Balkans, cũng như thả dù thực phẩm cho những người của Bosnia theo đạo Hồi giáo bị mắc kẹt tại Srebrenica. Nhìn lại chiến tranh Việt Nam nhà đại tướng cảm thấy e ngại như “nửa muốn chiến tranh với các nguyên do chưa chín mùi”. Khi Hoa kỳ đi vào chiến tranh, nhà đại tướng đã có lời tuyên bố, mục đích phải cho rõ, chiến thắng mới thiệt sự có được.
Đa số cho rằng cái nhìn này không hợp chút nào với một thế giới trong thời kỳ đang sôi động, với các cuộc xung đột không còn đạo lý và chỉ biết những quyền lợi riêng tư. Dennis Jett là cựu đại sứ Hoa kỳ tại Mozambique và Peru, ông đã cho biết : “Không may là không có bất cứ Giông Tố Sa Mạc nào nữa. Còn lại sẽ là những chiến trận như Sierra Leones và nhà đại tướng sẽ làm gì " Hy vọng các chiến trận này sẽ không còn nữa "”
Richard Kohn, giáo sư quân sử tại đại học University of North Carolina tại Chapel Hill, giáo sư đã cho biết :
“Có hai vùng hiện nay đang thách thức nhà đại tướng này. Vùng thứ nhất, nhà đại tướng có cái nhìn nào có thể hợp nhất thái độ của Hoa kỳ với thế giới, và có thể làm cho ăn khớp hay giải thích vùng này với Quốc hội và nhân dân Hoa kỳ hay không " Vùng thứ hai đặc biệt là Việt Nam, phải chăng nhà đại tướng đã có sẵn cái phối cảnh quân sự nào đó về nó "”
Việc chuyển hoán từ một binh gia sang một nhà ngoại giao tương đối dễ dàng đối với Đại tướng Powell. Không phải chỉ có sức thu hút quân chúng và tài vận dụng ngưới, nhưng anh lính bộ binh của một thời còn phải là một sĩ quan hầu như biết về chính trị.
Nhà đại tướng đã từng phục vụ như một nhân viên của toà Bạch ốc, phu tá cho ủy viên quốc phòng Caspar Weinberger và cũng là cố vấn an ninh khi làm chủ tịch cho các tư lệnh của liên quân. Đặc biệt trong bốn lần bổ nhiệm dẫn đạo ngăn ngủi, không quá 15 tháng, nhà đại tướng này đã phục vụ tại Washington từ năm 1969 cho tới khi về hưu vào năm 1993.
Nhiệm kỳ công tác đầu tại Việt Nam của Colin Powell là 10 tháng vào năm 1963, Powell làm cố vấn cho một tiểu đoàn bộ binh của VNCH. Trong nhiệm kỳ công tác thứ hai, hè năm 1968 cho tới hè năm 1969, Powel là một sĩ quan tham mưu cho Sư đoàn 23, vùng đã xẩy ra chuyện tảm sát dân lành tại Mỹ Lai trước khi Đại tướng Powell được bổ nhiệm để cầm quân.
Mỗi nhiệm kỳ công tác, nhà đại tướng này đều lãnh thương tích.
Đại tướng Powell đã viết trong tiểu sử của ông về những vết thương sâu đậm hơn trong thái độ thái độ bình thản “Tôi sang Việt Nam 1962 theo một nguyên tắc căn bản với nhữngï tin tưởng. Tôi đã nhìn thấy sự tin tưởng đã bị những lý luận vòng vo, những lời nói dối trá và sự tự đánh lừa bản thân mình đã bị soi mòn.”Thà theo nó hơn là chống lại quyết định của Washington. Khi là nhân viên của toà Bạch ốc, nhà đại tướng đã phục vụ cho văn phòng của Nixon về quản trị và ngân sách. Nhà đại tướng đã đậu được bằng cử nhân về quản trị kinh doanh. Nhà đại tướng đã buông chính sách an ninh của Carter tại Ngũ giác đài và quay trở về làm việc cho ủy viên quốc phòng Weinberger. Tại dây, nhà đại tướng đã gần gũi với Richard Armitage, một cựu chiến binh Hoa kỳ từng tham dự chiến tranh Việt Nam và trở thành một nhân vật cao cấp trong nội các của George W. Bush.
Các quan hệ chính trị đã cho nhà đại tướng thăng vọt vào chức chủ tịch cho các tư lệnh liên quân dưới thời Tổng thống Bush (người cha). Vào ngày đó nhà đại tướng chỉ là một tướng thường trong 15 tướng bốn sao nắm chức vụ này. Nhờ chức vụ này,vai trò của nhà đại tướng đã nổi bật lên tại cuộc chiến vùng vịnh.
Đối với tân tổng thống Bush (người con), phong cho một tướng tên tuổi làm thứ trưởng ngoại giao là gây nhiều nguy hiểm về mặt chính trị. Đại tướng Powell đã được chấm từ lâu để làm cho tổng thống. Nhưng các bạn bè cho biết, không thành vấn đề, nhà đại tướng này đã từng làm việc với nhiều người, ông ta tất nhiên phải biết chủ nhân là ai.