Một bà già 65 tuổi vào phòng mạch kêu đau đầu gối, đi đứng không được cả mấy năm nay rồi. Việc đầu tiên là phải khám bệnh, đưa bà cụ đi chụp hình xương, chụp hình đầu gối. Nếu bà cụ than phiền đau lưng thì phải khám lưng rồi đưa chụp hình quang tuyến lưng. Nếu bị phong ghấp osteoarthritis tay thì không nhất thiết bắt buộc phải chụp hình tay. Chụp hình quang tuyến là muốn coi khớp xương có bị lệch, mọc nhánh xương (osteophytes), xơ cứng và mọc nang (cysts).
Ngoài ra không quên thử bone density test, tức là đo mật độ xương cho bệnh nhân. Trước khi mất kinh, bệnh nhân vẫn có thể bị bệnh loãng xương. Loãng xương hay rỗng xương có thể không phát hiện triệu chứng, nhưng bệnh nhân thường than phiền đau đớn, không làm được việc gì, giảm ý nghĩa cuộc sống, tăng cao nguy cơ tử vong. Nếu bệnh nhân bị gẫy xương lưng rồi thì dễ bị gẫy thêm xương chỗ khác trong vòng một năm. Phòng ngừa bằng thuốc uống hay những điều trị khác như uống thuốc "antiresorptive agents". Thuốc Antiresorptive agents như alendronate, risedronate, ibandronate, raloxifene, kích thích tố trị liệu, chất calcitonin, và một loại thuốc hợp hóa (anabolic) như teriparatide. Trong báo Osteosporosis Journal Club, 1: 4, 2006, Bs Redonda G. Miller đã tóm tắt những kết quả nghiên cứu giảm nguy cơ bể xương bằng thuốc bisphosphonates như sau:
1) Trong nghiên cứu như (Vertebral Efficacy with Risedronate Therapy study) cho biết risedronate có hiệu quả trong việc điều trị bể xương sống lưng trong vòng 1 năm. Nguy cơ giảm thêm gẫy xương trong vòng 6 tháng sau khi điều trị.
2) Giảm nguy cơ gẫy xương những vùng khác, không phải đốt xương lưng, trong thời gian 3-4 năm sau khi điều trị bằng alendronate.
3) Ibandronate hiệu quả điều chỉnh hình dáng cũng như triệu chứng lâm sàng gẫy xương sau 3 năm. Ibandronate không hiệu quả khi điều trị gẫy xương khác ngoài xương lưng.
4) Raloxifene giảm nguy cơ gẫy xương thay đổi hình dáng, sau 3 năm điều trị và chỗ bể xương lưng mới trong vòng 1 năm sau khi điều trị. Raloxifene không thay đổi nguy cơ gẫy xương khác không phải xương lưng.
5) Teratapide giảm nguy cơ gẫy xương sống và gẫy xương không phải vùng xương lưng, 21 tháng sau khi điều trị. 6) Risedronate và kích thích tố trị liệu giảm nguy cơ gẫy xương trong vòng 7 năm.
Ngoài ra, trong việc hành nghề hằng ngày, nếu gặp bệnh nhân bị nguy cơ gẫy xương vì loãng xương thì trước hết cần khuyên bảo bệnh nhân giảm những nguy cơ như:
1) uống chất vôi (Calcium) từ 1200 tới mg/mỗi ngày, cộng thêm sinh tố D 400-800 IU/mỗi ngày. Trong một tường trình trình gần đây khuyến cáo: nếu bệnh nhân uống 1,200 mg/mỗi ngày nhưng uống thuốc chểnh mảng, không đều đặn, sẽ không lợi ích gì. Trước khi dùng thuốc ngừa trị loãng xương thì cần phải điều trị vết xương gẫy trước đã. Cần theo dõi hiệu quả của thuốc trong cả 2 trường hợp bể xương lưng và bể xương khác, ngoài xương lưng.
Chỉ có 2 thứ thuốc antiresorptive agents như risedronate và alendronate và thuốc anabolic agent teriparatide có hiệu quả trong việc điều trị gẫy xương lưng và gẫy xương khác ngoài xương lưng. Dùng kích thích tố estrogen riêng rẽ hay cộng chung vơí progestine giảm nguy cơ gẫy xương lưng và gẫy xương ngoài xương lưng, nhưng phải cân nhắc hơn thiệt trước khi dùng thuốc. Những nghiên cứu khác liên hệ cách điều trị bệnh loãng xương hay xốp xương như:
1) Osteosporosis in postmenopausal women. Therapy options across a wide range of risk for fracture. Geriatrics, 61: 24, 2006.
2) Strategies for the Prevention and treatment of osteosporosis during early postmenopausa, American Journal of Obstetrics and Gynecology, 194: S12, 2006.
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915; E-mail: nmtran@hotmail.com; Y Dược Ngày Nay: www.yduocngaynay.com.