Hôm nay,  

Tin Mới Y Học: Chữa Trị Và Ngừa Bệnh Viêm Gan B

24/06/200600:00:00(Xem: 2681)

Khi gặp một bệnh nhân Mỹ gốc Á Châu muốn xin thử máu tổng quát thì nên thử nghiệm thêm truy tầm viêm gan A, B, và C. Thử máu bao gồm truy tầm kháng thể viêm gan A, kháng thể viêm gan C. Riêng phần viêm gan B gồm có HBsAg (hepatitis B Surface Antigen), HBsAB (hepatitis B surface antibody).

Thử nghiệm HBcAb không nằm trong thử nghiệm truy tầm viêm gan B, nhưng là muốn tìm hiểu: liệu bệnh nhân trong quá khứ đã từng bị viêm gan B" Nếu kết quả thấy bệnh nhân có dương tính thử nghiệm HBsAg, tức là bệnh nhân bị siêu vi trùng viêm gan B kinh niên (mãn tính). Những thử nghiệm tiếp nối sẽ là: đếm số lượng HBV DNA. Mục đích muốn biết sức sinh sản siêu vi trùng viêm gan B.

Còn thử nghiêm HBeAg và HBeAb giúp định bệnh nhân thuộc loại HBeAg dương tính (wild type viêm gan B mãn tính) hay loại sớm đột biến HBeAg âm tính (precore mutant varieties). Mục đích xác định dương hay âm tính HBeAg là giúp tính toán thời gian điều trị viêm gan B mãn tính. Đo lường phân hóa tố ALT và AST là để tìm hiểu độ viêm của gan do siêu vi trùng viêm gan B gây ra. Bệnh nhân có thể bị nhiễm siêu vi trùng viêm gan B nhưng không phát hiện triệu chứng.

Bởi vậy khi bệnh nhân gốc Á Châu muốn thử máu tổng quát thì cần truy tầm thêm viêm gan, là bởi ở giai đoạn này triệu chứng viêm gan B có thể chưa xuất hiện. Muốn biết diễn biến viêm gan B ra sao thì phải đếm HBV DNA. Sinh thiết gan giúp bác sĩ định đoạt viêm gan hay chai gan. Tuy nhiên, không nhất thiết bất cứ ai cũng phải làm sinh thiết. Bệnh nhân viêm gan B có số lượng HBV DNA cao và ALT bình thường phải làm sinh thiết gan. Bệnh nhân có lượng HBV DNA cao nhưng ALT bình thường vẫn có nguy cơ chai gan và viêm gan, cần điều trị.

Theo FDA thì hiện giờ có 5 thứ thuốc được phép điều trị viêm gan B:

1) interferon-alpha-2b,

2) lamivudine (Epivir-HBV),

3) adefovir divipoxil (Hepsera),

4) entecavir (Baraclude) và

5) peginterferon-alpha-2a.

Ngoài ra, bệnh nhân cần truy tầm ung thư gan. Thường truy tầm ung thư gan bằng siêu âm. Có thể đo alpha fetoprotein nhưng không đặc thù. (Reference: Family Practice Recertifiation, April 2006).

Thêm những nghiên cứu Chăm Sóc Lâm Sàng Bệnh Nhân Viêm Gan B:

1. Cuộc hội thảo do FDA vừa đề ra ngày April 8, 2006, tại NIH Campus, Bethesda, Maryland, bao gồm những vấn đề sau đây trong việc điều trị bệnh nhân viêm gan B:

a) Viêm gan B vẫn còn là bệnh gây tàn phế và tử vong cho người Mỹ và nhiều dân tộc khác trên thế giới,

b) Đề tài nhắm vào siêu vi trùng B sinh sản và và diễn biến kinh niên hay mãn tính.

c) Miễn dịch viêm gan B,

d) Phản ứng tương tác giữa siêu vi trùng viêm gan B và cơ thể bệnh nhân,

e) Những thử nghiệm thuốc mơí điều trị viêm gan B.

2. Trong Hội Thảo lần thứ 41 tại Hội Họp Bệnh Gan, Âu Châu, 2006, cho biết hiện nay có 3 trong 5 thứ thuốc trị viêm gan B mãn tính được chú ý nhiều nhất: adenovir, entecavir, và peginterferon alfa-2a.

Kết quả những nghiên cứu cho thấy càng điều trị viêm gan B kinh niên lâu bao nhiêu càng có hậu quả tốt bấy nhiêu, đặc biệt nhắm vào 3 thuốc an toàn như adenovir, entecavir và peginterferon- alfa-2a. Điều trị viêm gan B mãn tính là để ngừa biến chứng chai gan và ung thư gan. Vài kiểu mẫu điều trị hiện thời là phải lưu ý ngăn chặn triệt để HVB DNA, càng mạnh, càng lâu, càng tốt. Nhiều thuốc mới khác đang trên đà thử nghiệm.

Ngừa Nhiễm Siêu Vi Trùng Viêm Gan B

Cơ Quan Chích Thuốc Phòng Ngừa và Cơ Quan Phòng Bệnh Hoa Kỳ vừa đưa ra khuyến cáo mơí phòng ngừa bệnh viêm gan B cho người Mỹ. Trước hết là tất cả mọi phụ nữ khi mang bầu có nguy cơ bệnh viêm gan B, đều phải chích ngừa.

Những phụ nữ trước đó giao hợp với một người khác, đã từng truy tầm và điều trị bệnh phong tình, hay người tình bị viêm gan B kháng nguyên dương tính, đều phải chích ngừa viêm gan B. Ngoài ra còn phải chỉ dẫn cho bệnh nhân viêm gan B cách tránh lây bệnh cho người khác.

Tất cả mọi trẻ em sống ở Mỹ đều phải chích ngừa viêm gan B. Trẻ em mới sinh có cân lượng trên 2,000 grams, có mẹ sản phụ bị dương tính kháng nguyên viêm gan B, đều phải chích ngừa viêm gan B, trước khi xuất viện.

Tùy theo từng trưòng hợp, chẳng hạn nếu trẻ có cân lượng chưa tới 2,000grams hay người mẹ có viêm gan kháng nguyên âm tính, có thể chờ chích ngừa sau khi ra khỏi bệnh viện. Bác sĩ cần viết giấy ghi rõ trẻ sơ sinh phải chích ngừa sau khi xuất viện và phải có bản chính kết quả thử nghiệm chứng nhận người mẹ có kháng nguyên viêm gan B âm tính. Trẻ em chích ngừa viêm gan B sau khi xuất viện không được quá 2 tháng sau khi sinh. Chích ngừa viêm gan B riêng rẽ hay tổng hợp với thuốc chích ngừa khác phải ghi rõ vào sổ, đặc biệt mũi chích cuối cùng phải quá 24 tháng. Phải chích ngừa 4 mũi theo thơì gian liên tục, nhưng mũi thuốc đầu tiên sẽ chích khi trẻ sơ sinh còn nằm trong nhà thương và mũi cuối có thể chích trong vòng 6 tơí 12 tháng sau khi sinh, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân còn nhỏ sống trong vùng có nguy cơ cao nhiễm siêu vi trùng viêm gan B. Thí dụ dân bản xứ Alaska, dân sống quanh vùng đảo Thái Bình Dương hay những di dân gốc Á Châu, Phi Châu hay bất cứ di dân từ những vùng nào khác có tỉ lệ nhiễm viêm gan B cao.

Phải chích ngừa viêm gan B cho trẻ em và thiếu niên dưới 19 tuổi nếu trước đây chưa từng được chích ngừa viêm gan B. (American Family Physicians, 73: 1839, 2006).

Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D., F.A.A.F.P.; Điện Thoại: (714) 547-3915;E-mail: nmtran@hotmail.com; Y Dược Ngày Nay: www.yduocngaynay.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
Hơn một thập niên trước, Shria Kumar, bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Miami, bắt đầu chú ý đến một dấu hiệu đáng lo ngại. Có một số bệnh nhân ung thư dạ dày đến gặp bà ở độ tuổi rất trẻ, và rất nhiều người là phụ nữ. Khuynh hướng này vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Các khoa học gia đang nỗ lực tìm hiểu tại sao điều này lại xảy ra. Vào mùa xuân năm ngoái, họ đã xác nhận rằng hiện tượng này đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Sau khi kiểm tra hệ thống các cơ sở dữ liệu chứa các thông tin chi tiết về các trường hợp ung thư ở nhiều tiểu bang trên toàn quốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy ung thư dạ dày đang gia tăng nhanh hơn ở phụ nữ trẻ.
Wegovy, Ozempic và Mounjaro là các loại thuốc giảm cân và điều trị tiểu đường đã gây được tiếng vang lớn trong lĩnh vực tin tức y tế. Chúng nhắm vào các con đường điều tiết liên quan đến cả bệnh béo phì và tiểu đường, và được nhiều người coi là bước đột phá trong việc kiểm soát cân nặng, đường và huyết áp. Nhưng liệu những loại thuốc này có giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hội chứng chuyển hóa (metabolic disease) không? Điều gì đã thúc đẩy sự phát triển của chúng từ ban đầu?
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”
Bằng cách bắt chước cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại nhiễm trùng do vi khuẩn, một nhóm nghiên cứu ở Lund, Thụy điển hy vọng có thể ngăn chặn tình trạng viêm phát triển thành nhiễm trùng máu, theo đài truyền hình SVT, Thụy điển. Nhiễm trùng máu là tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa tính mạng. Thông thường nguyên nhân là do viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng vết thương. Nghiên cứu từ Lund cho thấy hiện nhiễm trùng huyết phổ biến hơn so với trước đây.
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.