Hôm nay,  

Các Tế Bào Ung Thư Có Thể Trở Nên Bất Tử Như Thế Nào?

18/11/202200:00:00(Xem: 2045)
Telomeres
Telomere đóng một vai trò thiết yếu trong việc xác định số lần một tế bào có thể phân chia. Trong chu trình của một tế bào bình thường, quá trình phân bào sẽ khiến cho một phần của telomere bị mất đi. Trong khi đó, các tế bào khối u có thể duy trì độ dài của các telomere bằng cách kích hoạt một enzym gọi là telomerase, có chức năng xây dựng lại các telomere trong mỗi lần sao chép. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Một đặc điểm xác định của tế bào ung thư là khả năng bất tử. Thường thì các tế bào bình thường bị giới hạn số lần phân chia trước khi ngừng phát triển. Tuy nhiên, tế bào ung thư có thể vượt qua ngưỡng hạn chế này để hình thành khối u và “qua mặt cái chết” bằng cách tiếp tục nhân đôi (replicate).

Các Telomere* đóng một vai trò thiết yếu trong việc xác định số lần một tế bào có thể phân chia. Telomere là 1 đoạn DNA có trình tự (TTAGGG) lặp lại nhiều lần ở đầu mỗi nhiễm sắc thể, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ phân tử DNA khỏi các tác động gây hại và sự mất ổn định của hệ genome. Trong chu trình của một tế bào bình thường, quá trình phân bào sẽ khiến cho một phần của telomere bị mất đi. Khi độ dài của telomere đạt tới mức giới hạn thì tế bào sẽ tự chết theo chương trình (apotosis**). Do vậy, độ dài của telomere có thể coi như chiếc đồng hồ sinh học để xác định “tuổi thọ” của tế bào và các cơ quan.

* Telomere là phần cuối của nhiễm sắc thể, một vùng trình tự DNA lặp đi lặp lại. Telomere bảo vệ các đầu của nhiễm sắc thể không bị sờn hoặc rối. Mỗi lần tế bào phân chia, các telomere trở nên ngắn hơn một chút. Cuối cùng, chúng trở nên ngắn đến mức tế bào không thể phân chia thành công nữa, và tế bào sẽ chết.

** Apoptosis: hay quá trình chết tế bào, là một quá trình diễn ra tự nhiên trong cơ thể, bao gồm một chuỗi các bước được kiểm soát để cuối cùng tế bào tự hủy diệt (tự sát) một cách có chủ đích. Cơ thể dùng apoptosis để giám sát và cân bằng tự nhiên quá trình phân chia tế bào (nguyên phân) hoặc tiếp tục phát triển và tái tạo tế bào.

Trái lại, các tế bào khối u có thể duy trì độ dài của các telomere bằng cách kích hoạt một enzym gọi là telomerase, có chức năng xây dựng lại các telomere trong mỗi lần sao chép.

Telomerase được mã hóa bởi một gen có tên là TERT, một trong những gen thường bị đột biến nhất trong bệnh ung thư. Các đột biến TERT khiến các tế bào tạo ra quá nhiều telomerase và được cho là có thể giúp các tế bào ung thư giữ được độ dài của telomere bất chấp tốc độ tái tạo của chúng cao. Ung thư tế bào hắc tố (Melanoma), một dạng ung thư da ác tính, phụ thuộc nhiều vào telomerase để phát triển và 3/4 bệnh melanoma có đột biến trong telomerase. Các đột biến TERT tương tự cũng xảy ra với các loại ung thư khác.

Điều bất ngờ là, các chuyên gia nghiên cứu phát hiện ra rằng đột biến TERT chỉ có thể giải thích phần nào về tuổi thọ của các telomere trong ung thư tế bào hắc tố. Các đột biến TERT thực sự có kéo dài tuổi thọ tế bào, nhưng không ‘ban’ cho chúng khả năng bất tử. Điều này nghĩa là phải có thứ gì đó khác giúp telomerase có thể làm cho các tế bào phát triển không kiểm soát. Nhưng vẫn chưa thể nói rõ được “cú hit thứ hai” này có thể là thứ gì.

Hai tác giả của bài viết này thuộc nhóm chuyên gia nghiên cứu vai trò của telomere đối với sức khỏe và các loại bệnh như ung thư tại Alder Lab thuộc trường University of Pittsburgh. Trong khi tìm hiểu về các cách mà các khối u duy trì telomere của chúng, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy một mảnh ghép khác cho câu đố: một gen khác gắn liền với telomere trong bệnh ung thư tế bào hắc tố (melanoma).

Yếu tố tăng cường khả năng bất tử của tế bào

Nhóm nghiên cứu tập trung vào khối u melanoma, một loại ung thư da, vì loại ung thư này có liên quan đến những người có telomere dài. Họ đã kiểm tra dữ liệu giải trình tự DNA từ hàng trăm người bị ung thư tế bào hắc tố, tìm kiếm các đột biến trong các gen có liên quan tới độ dài của telomere.

Nhóm nghiên cứu đã xác định được một cụm đột biến trong gen có tên là TPP1. Gen này mã hóa cho một trong sáu loại protein tạo thành một phức hợp phân tử có tên là Sheterin, có chức năng bao bọc và bảo vệ các telomere. Thú vị hơn nữa, TPP1 vốn có tác dụng kích hoạt telomerase. Nói cách khác, việc xác định mối liên quan giữa gen TPP1 với các telomere ung thư vốn là điều hiển nhiên. Rốt cuộc, từ hơn một thập niên trước, các khoa học gia đã chỉ ra rằng TPP1 sẽ tăng cường hoạt động của telomerase.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu xem liệu quá dư thừa TPP1 có thể làm cho tế bào bất tử hay không. Khi họ chỉ đưa protein TPP1 vào tế bào, không có sự thay đổi nào về cái chết của tế bào hoặc độ dài của telomere. Nhưng khi đưa các protein TERT và TPP1 vào cùng một lúc, họ nhận thấy rằng chúng ‘đồng tâm hiệp lực’ để kéo telomere dài ra đáng kể.

Để xác nhận giả thuyết, nhóm nghiên cứu đã chèn các đột biến TPP1 vào các tế bào melanoma bằng công cụ chỉnh sửa gen CRISPR-Cas9. Họ nhận thấy có sự gia tăng số lượng protein TPP1 mà các tế bào tạo ra, và hoạt động của telomerase cũng tăng theo đó. Cuối cùng, họ quay lại dữ liệu giải trình tự DNA và nhận thấy rằng có 5% số người bị bệnh melanoma có đột biến ở cả TERT và TPP1. Dù đây vẫn là một tỷ lệ đáng kể đối với bệnh ung thư tế bào hắc tố, nhưng cũng có nhiều yếu tố khác góp phần ‘bảo hộ’ telomere trong căn bệnh này.

Phát hiện mới ngụ ý rằng TPP1 có khả năng là một trong những mảnh ghép còn thiếu để giúp tăng cường khả năng của telomerase trong việc duy trì các telomere và khiến cho khối u phát triển và …bất tử.

Ung thư sẽ không còn bất tử

Nếu đã biết được ung thư sử dụng các gen này trong quá trình nhân đôi và phát triển, các chuyên gia nghiên cứu sẽ tìm cách ngăn chặn, không cho các telomere tiếp tục dài ra nữa, khiến tế bào ung thư chết đi. Khám phá mới không chỉ mở ra cho các khoa học gia một con đường tiềm năng khác để điều trị ung thư, mà còn thu hút sự chú ý tập trung vào một nhóm đột biến không được đánh giá cao ở ngoài ranh giới truyền thống của các loại gen có thể đóng vai trò trong chẩn đoán ung thư.

***
Phỏng dịch theo bài “How cancer cells can become immortal – new research finds a mutated gene that helps melanoma defeat the normal limits on repeated replication” của Bác sĩ Pattra Chun-On, Ứng viên Ph.D. ngành Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường, University of Pittsburgh Health Sciences; và Jonathan Alder, Phó giá Giáo sư Y khoa, University of Pittsburgh Health Sciences. Bài viết được đăng trên trang TheConversation.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Tim đập liên hồi.” “Bồn chồn trong dạ.” “Tim muốn rớt ra ngoài.” “Nẫu ruột.” Đây là những cụm từ được nhiều người sử dụng để mô tả nỗi sợ hãi và lo âu. Thường thì chúng ta có thể cảm thấy được những cảm giác lo lắng, sợ hãi ở lồng ngực hoặc trong bụng chứ không phải ở não. Nhiều nền văn hóa có truyền thống gắn liền sự hèn nhát và dũng cảm với hình ảnh trái tim hoặc lòng dạ hơn là với bộ não.
Bệnh gan đang trở nên phổ biến hơn ở các nước phương Tây. Tại Thụy Điển, ước tính có khoảng một triệu người mắc bệnh gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ, đúng như tên gọi có nghĩa là gan tích tụ mỡ, không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Vì vậy, hầu hết người bịnh không biết rằng họ có chất béo tích tụ, mà ở một số người cuối cùng có thể phát triển thành xơ gan và ung thư gan. Một nghiên cứu ở Thụy Điển cho thấy số người mắc bịnh gan nhiễm mỡ ngày càng gia tăng.
Nhà sinh lý học vĩ đại người Pháp Claude Bernard đã phát triển khái niệm về nội môi (le milieu intérieur, tiếng Anh là the internal environment, tạm hiểu là môi trường bên trong cơ thể): môi trường chất lỏng được điều tiết tinh tế bao quanh các tế bào, chảy qua các động mạch và tĩnh mạch, thấm vào tất cả các cơ và dây thần kinh, cơ quan và xương trong cơ thể chúng ta. Hai trái thận phải làm khá nhiều việc để duy trì trạng thái cân bằng cho môi trường chất lỏng này, hay còn gọi là “cân bằng nội môi” (homeostasis). Chúng loại bỏ nhiều chất với nhiều kích thước khác nhau ra khỏi máu. Các chất này là phụ phẩm khi cơ thể tạo ra và đốt cháy năng lượng, và sẽ trở nên độc hại nếu tích tụ quá nhiều. (Gan thì trực tiếp loại bỏ các hóa chất khác ngay sau khi tiêu hóa, như rượu và ma túy, trong khi ruột, phổi và da thì thực hiện các chức năng bài tiết bổ sung.)
Thương hiệu số một trên thế giới, CheongKwanJang, hòa nhập với xu hướng Thực Phẩm Dược Tính toàn cầu, đã thông báo về sự hợp tác với chuỗi nhà hàng Kabuki của Nhóm Kaizen Dining. Sự hợp tác này, kết hợp truyền thống 120 năm và lợi ích sức khỏe của CheongKwanJang với ẩm thực Nhật Bản quen thuộc đối với người Mỹ, đã được tiết lộ tại một sự kiện diễn ra vào ngày 6 tháng 9 tại nhà hàng chính của Kabuki Huntington Beach. Tiến sĩ Lee Yun-beom, CEO của CheongKwanJang tại trụ sở Hoa Kỳ, đã tuyên bố: "Hồng Sâm Hàn Quốc, được biết đến khoa học với tên gọi Panax Ginseng C.A. Meyer, khác biệt với các loại sâm được tìm thấy tại Hoa Kỳ hoặc các khu vực khác; Nó đã được xác minh khoa học thông qua hơn 450 nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ."
Năm ngoái, các bác sĩ tại một bệnh viện ở Canberra đã sốc tới lặng người khi gắp một con giun sống ra khỏi não một phụ nữ. Trước đó, nữ bệnh nhân này phải vào bệnh viện với các triệu chứng như bị đau dạ dày, ho khan, đổ mồ hôi đêm trong hàng tháng trời, sau đó thì bà bị trầm cảm và hay quên. Bệnh nhân đã được chỉ định đi scan não.
Người ta thường nói rằng tất cả chúng ta rồi sẽ trở nên mất trí nhớ - trừ khi chết vì ung thư hoặc bệnh tim mạch. Tất nhiên, có những người chết vì các bệnh khác, tai nạn hoặc tự tử. Nhưng chính chứng mất trí nhớ, ung thư và bệnh tim mạch lại chiếm ưu thế trong danh sách về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh tim mạch đã tiến bộ và tỷ lệ sống sót hiện nay cao hơn nhiều. Ung thư đã từ một bản án tử hình trở thành một căn bệnh có thể điều trị được - mặc dù vẫn có những biến thể mà tỷ lệ tử vong gần một trăm phần trăm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy điển đã tìm ra một phương pháp để có thể phát hiện sớm các bệnh nghiêm trọng trong não, chẳng hạn như bệnh Parkinson, bằng cách thử dịch tủy sống sau lưng. Và họ cho biết rằng dấu hiệu ban đầu của bệnh là giảm khứu giác, tin từ Đài truyền hình Thụy điển. Tại Phòng khám Trí nhớ ở thành phố Malmö, Thụy điển, các bác sĩ lấy dịch tủy sống từ những người tình nguyện tham gia nghiên cứu bằng một cây kim vào giữa hai đốt ở cột sống, qua thử nghiệm đó các nhà nghiên cứu biết người đó có khả năng mang chứng bịnh thể Lewy* không? Các chứng bịnh thể Lewy là thuật ngữ chung cho bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ thể Lewy, hay còn gọi là sa sút trí tuệ Lewy.
Theo tờ Smithsonianmag, trong một cuộc phẫu thuật thử nghiệm đột phá, các khoa học gia đã điều trị cho bốn bệnh nhân bị thương nặng ở một mắt bằng cách cấy ghép tế bào gốc từ mắt còn lại. Ula Jurkunas, bác sĩ nhãn khoa tại Massachusetts Eye and Ear và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu mới, cho biết: “Báo cáo từng trường hợp cụ thể về bốn bệnh nhân cho thấy một số thông số đã có sự cải thiện, đồng thời cơn đau cũng như các triệu chứng khó chịu đều có giảm bớt.”
Các bác sĩ tại NYU Langone Health trong tuần qua cho biết ca ghép thận heo (đã biến đổi gen) cho một người đàn ông (đã chết não) thành công và thận vẫn tiếp tục hoạt động sau 32 ngày, tờ Washington Post đưa tin. Đây là một bước tiến lớn tới khả năng cấy ghép dị chủng. Theo báo cáo, trong vài phút đầu tiên sau khi được cấy ghép, trái thận không bị cơ thể người nhận đào thải – điều này thường là một vấn đề lớn trong cấy ghép dị chủng (sử dụng cơ quan từ loài khác để cấy ghép). Trái thận đã bắt đầu sản xuất nước tiểu và đảm nhận các chức năng của thận người như đào thải các chất độc.
Nếu thuở nhỏ quý vị từng bị rầy la vì vụ đọc sách, truyện trong bóng tối hoặc nếu có xài mắt kính chặn ánh sáng xanh khi làm việc trên máy tính, thì có thể quý vị chưa hiểu đúng về sức khỏe của mắt. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), ở Hoa Kỳ cứ 10 người trưởng thành thì có khoảng 4 người có nguy cơ cao bị suy giảm thị lực. Bác sĩ Joshua Ehrlich, giảng sư về nhãn khoa và khoa học thị giác tại Trường Michigan cho biết, có nhiều bịnh về mắt có thể điều trị hoặc phòng ngừa được. Và sau đây là một số niềm tin phổ biến của mọi người về thị lực và những nhận xét của các chuyên gia.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.