Hôm nay,  

Tín Hiệu Lạc Quan Cho Bệnh Nhân Ung Thư Phổi Từ Hội Thảo Của Công Ty AstraZeneca

16/01/202011:32:00(Xem: 5371)

astra
Vào trưa ngày Thứ Tư 15/01/2020, tại khách sạn InterContinental Downtown Los Angeles, công ty AstraZeneca đã tổ chức một buổi hội thảo về chủ đề ung thư phổi dành cho giới truyền thông Gốc Á tại khu vực Quận Cam và Los Angeles. Thuyết trình viên là năm bác sĩ chuyên khoa, có nhiều kinh nghiệm trong việc điều trị căn bệnh ung thư phổi cho các bệnh nhân gốc Á, trong đó có cộng đồng gốc Việt.

Tại Hoa Kỳ, ung thư phổi là loại ung thư phổ biến thứ hai ở cả nam lẫn nữ, và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư.  Theo thống kê, tại Mỹ hiện nay có khoảng 450,000 đang mắc chứng bệnh này, và ước tính có thêm 228,150 bệnh nhân mới trong năm 2019.

Mục đích của buổi hội thảo là gởi ra những thông tin hữu ích nhằm phá vỡ những thành kiến về căn bệnh ung thư phổi đang tồn tại trong cộng đồng gốc Á. Những quan niệm sai lầm này đã góp phần không nhỏ trong việc cản trở sự chuẩn đoán, điều trị căn bệnh một cách hiệu quả. Nhiều người vẫn nghĩ rằng hút thuốc lá là nguyên nhân lớn nhất gây ung thư phổi. Thực tế hiện nay, hút thuốc không phải là nguyên nhân duy nhất của bệnh ung thư phổi, mà đột biến gen mới là yếu tố lớn nhất thúc đẩy bệnh phát triển. 

Bệnh nhân người Mỹ gốc Á với khả năng tiếng Anh hạn chế, có thể không cảm thấy thoải mái để bày tỏ lo lắng tại phòng khám bác sĩ, hoặc có thể ngần ngại không đặt câu hỏi về bệnh của họ. Bệnh nhân gốc Á đã quen chấp nhận các thông tin và sự hướng dẫn từ bác sĩ, và thường không tích cực tham gia đưa ra quyết định.

Một thói quen tai hại khác là sau khi chẩn đoán, nhiều bệnh nhân gốc Á  che giấu bệnh tình với gia đình và bạn bè, vì họ không muốn trở thành gánh nặng. Hơn nữa, họ có thể bỏ mặc, hoặc thậm chí phủ nhận rằng họ đang gặp những triệu chứng của ung thư. Điều này làm cản trở quá trình điều trị một cách hiệu quả. 

Các chuyên gia trong buổi hội thảo đã chỉ ra rằng ung thư phổi không còn là căn bệnh bất trị, nhờ vào những tiến bộ y khoa vượt bực trong phương pháp điều trị. Khi biết được loại của ung thư phổi, giai đoạn mắc bệnh, lựa chọn liệu pháp phù hợp, bệnh nhân có thể kỳ vọng một kết quả tốt hơn.

Một số thông tin đáng chú ý trong buổi hội thảo có thể tóm tắt như sau:

  • Ung thư phổi có nhiều dạng. Loại phổ biến nhất hiện nay là ung thư phổi không tế bào nhỏ (non-small cell lung cancer), chiếm khoảng 85% trường hợp.

  • Trong những bệnh nhân ung thư phổi không do hút thuốc, nữ giới có xác suất mắc bệnh cao hơn nam giới.

  • Dữ liệu cho thấy một số sắc tộc (trong đó có người Mỹ gốc Á) dễ mắc một số đột biến nhất định hơn trong các tế bào ung thư khiến khối u phát triển và lan rộng.

  • Với những tiến bộ trong y học, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để tìm hiểu thêm về các gen đã gây ra ung thư phổi. Việc phát hiện ra những dấu ấn sinh học (biomarker) đã mang đến những đột phá trong điều trị ung thư phổi. Biomarker đã được xác định là yếu tố gây ung thư phổi. Xác định được biomarker của căn bệnh có thể mang đến kết quả điều trị hiệu quả hơn.

  • Trong những biomarker đã được xác định, EGFR (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì) là biomarker phổ biến nhất đối với người Châu Á, được tìm thấy ở lên đến 50% bệnh nhân ở Châu Á. Trong số những bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn sống ở New York và Los Angeles – hai trong số những thành phố đông dân người Mỹ gốc Á nhất – tỷ lệ xét nghiệm đột biến EGFR lần lượt là 60% và 57%.

  • Làm xét nghiệm biomarker (biomarker testing) là một bước rất quan trọng nhằm xác định biomarker, chẩn đoán bệnh đầy đủ cho bệnh nhân ung thư phổi ở giai đoạn 4. Xét nghiệm này sẽ giúp cho bác sĩ xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất. Việc xét nghiệm có thể được thực hiện bằng cách sinh thiếc (biopsy), hoặc thử máu. Kết quả xét nghiệm có thể có chỉ sau một vài tuần.

  • EGFR biomarker có thể được điều trị bằng liệu pháp trúng đích. Liệu pháp trúng đích là thuốc viên được uống mỗi ngày một lần nên có thể dễ dàng cho người bệnh và tránh gián đoạn cuộc sống hàng ngày. Liệu pháp trúng đích hiện nay đang được xem là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có EGFR biomarker.

  • Tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ đã được điều trị với liệu pháp trúng đích cao hơn đáng kể so với người được điều trị với những phương pháp khác, thí dụ như điều trị bằng hóa trị thường có nhiều tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân. Các chuyên gia trong hội thảo cho biết một số bệnh nhân ủng họ của họ được xác nhận là đã bình phục sau một thời gian điều trị bằng liệu pháp trúng đích.

  • Con cái trưởng thành có thể che chở hoặc bảo vệ các thành viên lớn tuổi trong gia đình Mỹ gốc Á khỏi những khó khăn về tinh thần và cảm xúc sau chẩn đoán ung thư phổi. Ngoài ra, sự hỗ trợ, động viên tinh thần từ những người đồng bệnh cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều trị. Duy trì sự lạc quan, giữ vững niềm tin là yếu tố rất cần thiết đối với bệnh nhân. 

Tại buổi hội thảo, các bác sĩ chuyên gia ung thư đã nhờ giới truyền thông gốc Á truyền lại những thông điệp lạc quan đến với cộng đồng của mình. Hãy bỏ qua những thành kiến sai lầm trước đây về ung thư phổi. Hãy đi khám bệnh để phát hiện bệnh sớm. Hãy làm xét nghiệm biomarker để tìm ra cách điều trị thích hợp cho mình. Làm được như vậy, cộng thêm với những tiến bộ y khoa trong phương pháp điều trị, việc đối đầu với căn bệnh ung thư phổi không còn là điều bất khả.

Đoàn Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.