Hôm nay,  

Câu Chuyện Thầy Lang: Bệnh Của Động Mạch Vành

16/03/201200:00:00(Xem: 12000)
Động mạch vành (Coronary Artery) là những mạch máu chạy quanh trái tim để nuôi cơ quan này.

Sau mỗi nhịp tim đập thì máu được đưa đi nuôi khắp cơ thể qua động mạch chủ. Riêng máu nuôi tim thì được chuyển trực tiếp vào động mạch vành. Các động mạch này gồm hai nhánh bao chung quanh trái tim như một cái vương miện. Nếu một trong những phân nhánh bị nghẹt thì tế bào tim ở vùng đó thiếu dinh dưỡng, thiếu dưỡng khí (oxy). Đó là sự thiếu máu cục bộ cơ tim (myocardial ischemia) và người bệnh sẽ có những cơn đau thắt tim (angina pectoris).

Nếu động mạch bị nghẽn vĩnh viễn thì cơn suy tim sẽ xẩy ra vì Nhồi máu cơ tim ( myocardial infarction) và tế bào tim bị tiêu hủy.
Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân đưa tới sự tắc nghẽn động mạch vành.

Trong đa số các trường hợp, có những mảng chất béo dần dần đóng lên thành động mạch. Lòng mạch máu ngày một thu hẹp khiến cho máu lưu thông giảm đi, rồi sau một thời gian sẽ gián đoạn hẳn. Đó là hiện tượng vữa xơ động m ạch (atherosclerosis).

Vữa xơ không phải xẩy ra bất thình lình mà từ từ diễn tiến cả chục năm. Đôi khi, sự tác nghẽn bắt đầu ngay từ khi còn trẻ, nhưng chưa đủ trầm trọng để đưa tới bệnh tim ở tuổi trung niên.

Vữa xơ là nguyên nhân chính của cơn suy tim, tai biến động mạch não, hoại thư (gangrene) đầu ngón chân, ngón tay. Các mạch máu dễ bị vữa xơ nhất là động mạch chủ nơi bụng (abdominal aorta), động mạch vành và động mạch não. Nguyên nhân của Vữa Xơ Động Mạch chưa được xác định rõ, nhưng theo kết quả nhiều nghiên cứu thì chất béo trong máu và các yếu tố sau đây là những nguy cơ có khả năng gây bệnh:

a-Tuổi tác

Hơn 50% trường hợp bệnh động mạch vành xẩy ra ở người trên 65 tuổi, cho nên nguy cơ bệnh tim tăng theo tuổi tác.

b-Giới tính

Theo thống kê thì nam giới trên 45 tuổi thường bị bệnh tim mạch nhiều hơn nữ giới, nhưng sau tuổi mãn kinh của nữ giới thì tỷ lệ mắc bệnh gần như nhau.

Nam giới thường có lượng cholesterol LDL cao hơn và HDL thấp hơn, một phần do tác dụng của kích thích tố nam Testosterone. Còn nữ giới thì một phần được sự bảo vệ của kích thích tố nữ estrogen, làm giảm cholesterol LDL. Khi mãn kinh, người phụ nữ không còn kích thích tố nữ thì cholesterol LDL nhích lên cao.

c- Di truyền

Vữa xơ động mạch đôi khi thấy ở nhiều người trong gia đình, nhất là khi bố mẹ hoặc anh chị em bị bệnh.

d- Chủng tộc

Người châu Á ít bị vữa xơ động mạch và cơn suy tim hơn người Âu Mỹ; người Mỹ gốc châu Phi lại hay bị bệnh tim vì họ bị cao huyết áp nhiều hơn.

e- Thuốc lá

Nicotine trong thuốc lá làm tăng huyết áp và nhịp tim, làm máu dễ đóng cục, làm giảm HDL, tăng LDL, tất cả đều có thể đưa tới bệnh tim mạch. Nicotine là một trong nhiều yếu tố khởi sự làm hư hao tế bào động mạch, đưa đến vữa xơ mạch máu này. Hít thở khói thuốc lá do người khác thải cũng có hại. Bỏ hút thuốc lá sẽ làm giảm nguy cơ benh tim mạch một cách đáng kể.

g- Béo phì

Thống kê cho hay người béo phì hay bị cao huyết áp, bệnh tim, cao cholesterol và do đó thường bị suy tim.

h- Cao huyết áp.

Huyết áp càng cao thì nguy cơ suy tim và vữa xơ động mạch càng tăng, nhất là khi kèm theo nghiện thuốc lá và béo phì. Áp suất lên cao làm yếu thành mạch máu, đưa tới hư hao, đóng bựa chất béo và các chất khác lên thành động mạch.

i-Bệnh tiểu đường

Người bị bệnh tiểu đường thường có nhiều nguy cơ bị các bệnh tim mạch như cơn suy tim, cao huyết áp, chất béo HDL thấp và triglyceride cao.

k- Ít vận động cơ thể

Người ít vận động cơ thể có nguy cơ bị bệnh Động Mạch Vành nhiều gấp đôi người năng vận động. Sự vận động làm giảm sự hóa vữa xơ, tăng máu lưu thông tới tim, tăng HDL, giảm béo phì, giảm cao huyết áp.

l-Cao cholesterol

Vai trò của cholesterol trong bệnh tim mạch đã được nghiên cứu sâu rộng trong những thập niên qua với nhiều dẫn chứng khoa học về vấn đề này.

Mức cholesterol trong máu lên tới 240mg/dl là nguy cơ lớn đưa tới vữa xơ động mạch rồi cơn suy tim và tai biến động mạch não. Nguy cơ càng cao khi cholesterol càng nhiều trong máu.

Ngoài tổng lượng cholesterol, các thành phần của chất béo này cũng quan trọng. Đó là các dạng cholesterol LDL (low density lipoprotein), HDL (hight density lipoprotein), Triglyceride.

Protein là chất vận chuyển lipid và hỗn hợp đó có tên là lipoprotein. Tỷ trọng (density) là tỷ lệ protein/lipid. Khi nhiều protein (high density) thì là HDL , ít protein (low density) thì là LDL.

Trong tổng lượng cholesterol thì từ 60-70% là LDL, 20-30% là HDL, 10-15% là VLDL.

Cholesterol ở mức độ dưới 200mg/dl là lý tưởng; 200-239 còn tạm chấp nhận được, chứ lên trên 240 thì là rất cao và có nguy cơ gây bệnh.

LDH thường được coi như không tốt vì nó là thành phần gây nhiều rắc rối cho hệ tim mạch. Cholesterol này đưa chất béo trong thực phẩm vào các tế bào. Khi tế bào hết chỗ chứa thì chất béo đóng vào lòng động mạch, lâu dần đưa tới vữa xơ, tắc nghẽn.

Mức độ lý tưởng của LDL trong máu là dưới 130mg/dl; 130-159 mg/dl là bắt đầu có vấn đề; và lên cao hơn 160mg/dl là nguy hiểm.

HDL vận chuyển chất béo vào dự trữ trong gan để cho lượng chất béo trong máu chỉ đủ dùng, không có dư để đóng vào thành động mạch.Lượng HDL trong máu mà bằng hoặc cao hơn 35mg/dl là tốt, nếu HDL có thể cao hơn 60mg/dl thì thật lý tưởng và an toàn.

Bình thường, cơ thể sản xuất đủ số cholesterol mà ta cần. Cholesterol đo trong máu có tới 85% là do cơ thể tự tạo; còn lại 15% là do thực phẩm cung cấp.

Vì thế, cholesterol trong máu có thể lên cao nếu ta tiêu thụ nhiều cholesterol và các chất béo bão hòa. Hậu quả là sự đóng mảng trong lòng động mạch. Khi nghẹt động mạch vành, ta bị cơn suy tim (Heart attack). Khi một mảng chất béo ở động mạch nào đó chạy lên não thì gây ra tai biến động mạch não (Stroke).

Kết luận.
Cao cholesterol là rủi ro chính yếu đưa tới bệnh tim mạch.

Kiểm soát cholesterol là việc làm lâu dài, cần kiên nhẫn với các phương pháp được nhiều nhà chuyên môn dinh dưỡng công nhận.

Nên dè dặt với những giới thiệu, quảng cáo chữa khỏi hoàn toàn mà không cần thuốc hoặc một chế độ ăn uống nhiều chất này, bỏ chất kia.

Dinh dưỡng trong bệnh tật cũng như trong sức khỏe cần sự đa dạng, vừa phải, phối hợp của nhiều thực phẩm khác nhau.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas- Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã công bố tháng 11 hàng năm là thời gian để nhắc nhở dân chúng về bệnh tiểu đường cũng như khích lệ mọi nguời cố gắng loại bỏ căn bệnh hiểm nghèo này
Hằng chục quyển sách đã ấn hành. Nhiều đề tài đã được thảo luận trong các buổi thuyết trình. Phần lớn đề cập đến vấn đề Bịnh Tật và Sức Khỏe. Mới đây tại Úc, tôi cũng đã nói về Hạnh Phúc
Khám phá bệnh nhân tiền cao máu tăng cao nguy cơ cơn đau tim (heart attack) và tăng cao nguy cơ bệnh tim mạch gấp 1.7 lần so với những người bình thường không bị cao huyết áp
Mặc dù cơ thể chỉ cần một lượng sinh tố rất nhỏ nhưng lượng nhỏ đó giữ vai trò rất quan trọng cho sự sống còn của con người. Không có sinh tố thì những sinh vật cao cấp như loài người
Cúm bắt đầu phát hiện ở Hoa Kỳ. Trong giờ phút này, phần lớn chúng ta đã nhận được thuốc chích ngừa cúm cho mùa 2006-2007. Thuốc ngừa cúm ở Mỹ năm nay gồm những siêu vi trùng
Sách Danh Từ Y Học Pháp -Việt của bác sĩ Lê Khắc Quyến in năm 1962 tại Huế dịch Enzyme là Men, Diếu-tố, Phân-hóa-tố. Chữ Diếu Tố đã được dùng trong môn Vạn Vật Học từ  trên nửa thế kỷ
FDA cho phép dùng thuốc mới Tyzeka (Telbivudine) điều trị bệnh viêm gan B kinh niên. Tyzeka là một phân tử hoàn toàn mới, chưa bao giờ được FDA Hoa Kỳ cho phép sử dụng trước đây
Bệnh viêm gan B mạn tính là một vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ toàn cầu.1 Đây là nguyên nhân gây tử vong cao thứ 10 trên thế giới. 2  Gây ra bởi vi rút
Thông tin Tổng quát về Bệnh viêm gan B (HBV) trên thế giới: - Có xấp xỉ 350 triệu người trên thế giới mắc bệnh viêm gan B mạn tính (CHB)1 - Bệnh viêm gan B mạn tính (CHB) là nguyên nhân
25 tháng 10, năm 2006 –Idenix Pharmaceuticals, Inc. (NASDAQ: IDIX) hôm nay đã thông báo việc Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.