Hôm nay,  

Câu Chuyện Y Sinh Học: Ung Thư, Mập Phì, DNA...

07/05/201100:00:00(Xem: 10934)

Câu Chuyện Y Sinh Học: Ung Thư, Mập Phì, DNA...

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô

EGFR và ung thư. Bs Avaniyapuram Kannan Murugan và các đồng nghiệp đã tìm hiểu hiện tượng đột biến của một số di thể như GNAQ, MMP8, AKT3, EGFR, và PIQ3R1 trong ung thư tuyến giáp trạng. Kết quả tường trình trong điện báo Endocrine Pathology, 18 April 2011 cho biết khoảng 5% di thể EGFR đột biến trong ung thư tuyến giáp trạng (papillary thyroid cancer).

Đột biến EGFR (epidermal growth factor receptor) thấy trong cơ thể con người còn có tên là ErbB-1; HER1, là một thụ thể thấy ngoài màng tế bào (cell surface receptor).

Trong điện báo Cancer Cytology ngày 11 tháng 03, 2011, Bs Shareen Billard và các cộng sự viên cho biết di thể EGFR và KRAS đột biến trong ung thư phổi (non-small cell lung carcinoma) và khuyến cáo nên thử nghiệm lâm sàng đột biến di thể EGFR hay di thể KRAS.

Trong bản tin Internal Medicine 15 tháng 04, 2011, Hội American Society of Clinical Oncology và National Comprehensive Medical Network khuyến cáo thử nghiệm đột biến di thể EGFR có thể coi như bước đầu quan trọng trong việc định giá điều trị ung thư phổi (non-small cell) di căn hay tái phát. Bệnh nhân ung thư phổi nặng (non-small cell lung cancer) trước khi được điều trị dùng một trong những loại tyrosine kinase inhibitors, loại thuốc nhắm vào kìm hãm EGFR, thì cần thử nghiệm đột biến EGFR.

Liên hệ Oxýt hoá Nitric và Mập phì ở trẻ em. Bs Codoner-Franch và các đồng nghiệp phổ biến kết quả nghiên cứu cho biết hiện tượng oxýt hoá Nitric tăng cao ở trẻ em mập phì. Có liên hệ giữa hiện tượng oxýt hoá Nitric và những thông số của cơ thể như bụng mập phì, cường độ oxýt hoá (oxidative stress) và những dấu ấn viêm trong cơ thể.

Nitric Oxide còn gọi là Nitrogen monoxide là một hoá chất có công thức hoá học là NO. Tăng biểu hiện NO lâu dài liên hệ ung thư và những điều kiện viêm thường thấy ở bệnh tiểu đường trẻ em, bệnh xơ cứng (multiple sclerosis), phong thấp (arthritis) và viêm lở loét ruột kết mạc (ulcerative colitis).

Oxýt hoá làm hư hại DNA và mập phì bệnh nhân tiểu đường loại 2. Bs Hayder Al-Aubaidy và Bs Herbert Jelinek vừa phổ biến kết quả nghiên cứu hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA, bệnh tiền tiểu đường và tiểu đường loại 2. Kết quả nghiên cứu cho biết mức 8-OHdG (8-hydroxy-2-deoxy-guanosine) bệnh nhân tiền tiểu đường tăng cao trong huyết thanh. Tăng cao 8-OHdG là tăng cao hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA trong trường hợp bệnh nhân tiền tiểu đường có mức đường glucose tăng nhẹ trong máu. Kết quả khuyến cáo có sự liên hệ giữa chất 8-OHdG với chỉ số trọng khối cơ thể (BMI, body mass index), và mập phì với mức đường cao trong máu và hiện tượng oxýt hoá làm hư hại DNA. 8-OhdG là một sản phẩm do oxýt hoá chất deoxyguanosine. Đo lượng 8-OhdG trong tế bào là đo mức oxýt hoá (oxydative stress) trong tế bào.

Dấu ấn FGFR1 và mập phì. Bs Hong Jiao và các cộng sự viên tìm hiểu FGFR1 có phải là di thể nguyên bào sợi (fibroblast) liên hệ bệnh mập phì. Thử nghiệm chuột cho thấy FGFR1 là một di thể của mập phì ảnh hưởng mô mỡ và kiểm soát tuyến não thùy khi nếm đồ ăn.

FGFR1 (Fibroblast growth factor receptor 1) là thụ thể 1 trong yếu tố căn bản của nguyên bào sợi, liên hệ chất Tyrosine kinase trong hội chứng Pfeiffer. Pfeiffer là một bệnh di truyền ở trẻ em sơ sinh khi những mảnh xương sọ sớm dính lại vơí nhau (craniocynostosis). Cứ khoảng 100 ngàn trẻ sơ sinh lại có 1 em bị hội chứng Pfeìffer.

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, Xin mời quý đôc giả ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay, một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nghiên cứu mới nhất cho thấy có bằng chứng rằng trầm cảm không phải là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Trong suốt ba thập niên, mọi người đã bị “nhồi sọ” rằng trầm cảm là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất của Joanna Moncrieff (Giáo Sư lâm sàng cao cấp, Khoa tâm thần học xã hội và phê bình, UCL) và Mark Horowitz (Nghiên cứu lâm sàng về Tâm thần học, UCL) cho thấy có bằng chứng không hỗ trợ điều đó. Nghiên cứu được đăng trên trang TheConversation.
Giăng biểu ngữ. Cầm bảng. Biểu tình. Hăm dọa… Chiến thắng. Thất vọng. Reo hò. Giận dữ. Cười, Khóc. …như một trận đấu football chuyện nghiệp chung kết hoặc trận túc cầu vô địch quốc tế, nhưng tệ hơn vì hai bên thua và thắng, từ cầu thủ cho đến người ủng hộ sinh lòng oán hận nhau. Chuyện này tạm gọi là “Trận Đấu Bầu,” mà trọng tài là chín thẩm phán Tối Cao Pháp Viện. Nói cho công bằng, cả hai phe: giữ bầu và phá bầu đều có lý do chính đáng, đều có thể thuyết phục đa số nếu cả hai phe đừng ngoan cố chèn ép lẫn nhau, có lẽ vì lòng hiếu thắng hơn là lợi ích, vì lợi ích trực tiếp ở nơi người có bầu hoang, bầu không được thừa nhận, không phải thuộc về đa số người không có kinh hoặc đã tắt kinh. Trong thiên nhiên ngàn năm vẫn vậy, từ chiếc nụ nở thành hoa cho đến khi đơm trái, biết bao nhiêu ong bướm dập dìu, mang phấn nhụy đi reo rắc dòng dõi khắp nơi trên mặt đất.
Chứng nhức đầu “migraine” đang hành hạ hơn 1 tỷ người và là nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng thứ hai trên toàn thế giới. Ở Hoa Kỳ, cứ 4 gia đình thì có 1 gia đình mà trong đó có ít nhất một thành viên bị chứng đau nhức đầu, với những cơn đau dồn dập, kinh niên. Mỗi năm, ước tính có khoảng 85.6 triệu ngày nghỉ ốm là do bệnh đau đầu.
Lavender (Oải Hương) là một loài hoa rất phổ biến với các nền văn hóa phương Tây. Với người Việt – đặc biệt là người Việt ở Mỹ- trong vài thập niên qua cũng đã bắt đầu quen thuộc với loài hoa màu tím có hương thơm đặc trưng này. Lavender có tên khoa học là Lavendula, là một loại cây thuộc chi Oải Hương (Lavandula), là loại cây bụi có hoa mùi thơm nồng, xuất xứ từ vùng Địa Trung Hải. Cây hoa Oải Hương đã được biết đến cách đây hàng ngàn năm ở Châu Âu từ thời Hy Lạp cổ đại. Đó là nguồn cung cấp tinh dầu oải hương, được xem như là một thảo dược hữu dụng từ thuở xa xưa. Do mùi hương thơm sạch có tính chất đuổi côn trùng, có tính sát trùng, tinh dầu oải hương được ứng dụng rộng rãi để giúp thư giãn cơ thể, giúp làm lành vết thương, sát khuẩn nhẹ…
Cho đến nay, hầu hết các nỗ lực điều trị bệnh Alzheimer đều tập trung vào việc loại bỏ các dấu hiệu của căn bệnh: các mảng và đám chất độc tích tụ trong não. Những nỗ lực đó đưa đến việc sản xuất ra các loại thuốc có thể làm giảm các mảng và đám, nhưng vẫn chưa có tác dụng gì nhiều để duy trì tư duy và trí nhớ. Các kết quả mới nhất với dịch tủy sống cho thấy các phương pháp điều trị khác có thể có hiệu quả, ngay cả khi chúng không ảnh hưởng đến quá trình cơ bản của căn bệnh.
Ngày 24 tháng 3 là Ngày Lao Phổi Quốc Tế. Lao Phổi là một trong những bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Có đến 13 triệu người tại Hoa Kỳ đang sống chung với nhiễm Lao tiềm ẩn. Nếu không được chữa trị, 5-10% sẽ tiến triển thành bệnh Lao Phổi. Tuy nhiên, nhiều người vẫn tưởng rằng Lao Phổi không còn là một vấn đề đáng quan tâm nữa.
Hôm nay, CDC và FDA tuyên bố là chính phủ cho phép chích mũi vaccine thứ tư cho những người từ 50 tuổi trở lên và cả những người từ 12 tuổi trở lên nhưng cơ thể không thể kháng bệnh như người bình thường. Các cơ quan liên bang đã đi đến quyết định này vì họ sợ rằng con vi khuẩn omicron có thể sẽ mang đến nhiều hiểm họa cho Hoa kỳ, tương tự như những gì đã xẩy ra cho châu Âu. -- Xin đọc bài viết rất thiết yếu cho sức khỏe của tất cả chúng ta, của bác sĩ Nguyễn C. Cường. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Sức khỏe rất quan trọng đối với mọi người mà thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong lãnh vực này...
Đông y, còn được gọi là y học cổ truyền Trung Quốc, là một hệ thống y tế lâu đời nhất được biết đến trên thế giới. Không như Tây y, Đông y tập trung vào một sinh lực gọi là “Khí” (hay chi) lưu chuyển trong cơ thể, và khi bị tổn thương, cơ thể sẽ dễ mắc bệnh. Các bác sĩ tìm hiểu căn cơ dẫn đến sự mất cân bằng về tinh thần và thể chất, sau đó thực hiện một cách tiếp cận toàn diện để chữa lành và phục hồi khí cho bệnh nhân.
Thường thường phải có thời gian trung bình là từ ba tới sáu tháng để một móng mọc ra từ gốc tới đầu của móng.Hướng mọc của móng được một lớp da mỏng mọc theo chiều cong ở đáy của móng. Miễn là nơi này của móng không bị tiêu hủy, các thương tích của móng có khuynh hướng kích thích sự tăng trưởng cho tới khi nó lành trở lại.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.