Hôm nay,  

Vai Trò Bác Sĩ Hospitalist Trong Bệnh Viện

28/03/200900:00:00(Xem: 6431)

Vai Trò Bác Sĩ Hospitalist Trong Bệnh Viện

Bác Sĩ Trần Mạnh Ngô

Chỉ mới khoảng gần 10 năm qua, danh từ bác sĩ khám bệnh trong nhà thương "hospitalist" đã ra đời ở Mỹ. Trong 3-4 năm đầu, một loạt chống đối nổi dậy từ nhiều phía, nhưng nay đã êm lặng hơn. Y Khoa bệnh viện đã dần dần có một chỗ đứng, mỗi năm tiến triển một khá hơn. Trong bối cảnh y tế ngày nay, y khoa gia đình đã trở thành quan trọng hơn. Số lượng bác sĩ gia đình càng ngày càng đông, nhưng khi phải nhập viện bệnh nhân, đã thử nghiệm không đồng nhất trong bệnh viện.

Vai trò "hospitalist" đã giúp chương trình hành nghề trong bệnh viện đồng nhất hơn, hệ thống hóa hơn. Như vậy, chỉ cần 10 hospitalists là có thể tương đương với vài trăm bác sĩ trước đây đã từng nhập viện và theo dõi điều trị bệnh nhân trong bệnh viện.

Bác sĩ "hospitalist" đã tuân theo một nội quy đồng nhất khi thử nghiệm điều trị một số bệnh thường thấy trong bệnh viện như sưng phổi, cơn đau tim, suy tim, hay tai biến mạch máu não. Thí dụ như họ được huấn luyện đồng nhất để biết khi nào thì bắt đầu đặt dụng cụ truyền nước biển, khi nào bắt đầu truyền thuốc cho bệnh nhân hay cho bệnh nhân uống thuốc, khi nào cần phải thử nghiệm, chụp hình hay thử máu cho bệnh nhân trong bệnh viện. Khoảng bao lâu bệnh nhân phải nằm trong bệnh viện và khi nào thì bệnh nhân cần xuất viện.

Mặc dầu có những ưu điểm kể trên, mọi người đều đồng ý vẫn cần có sự cộng tác mật thiết giữa các bác sĩ gia đình khám bệnh ngoại chẩn và bác sĩ "hospitalist" điều trị bệnh nhân trong nhà thương. Thí dụ bác sĩ gia đình có thể cho bác sĩ "hospitalist" biết tình trạng bệnh nhân trước đây ra sao, bệnh nhân hiện đang uống những thuốc gì, tình trạng đau đớn của bệnh nhân ra sao, v…v…Hội Y Khoa Bệnh viện và các hội Y Sĩ đang cộng tác chặt chẽ để tìm một phương thức thích hợp lâu dài trong việc điều trị bệnh nhân trong nhà thương. Nhưng chúng ta cũng phải chờ thêm thời gian để tìm hiểu liệu bệnh nhân có thoả mãn phương pháp điều trị liên tục khi dùng bác sĩ "hospitalist" trong bệnh viện hay không" Thêm một dấu hỏi khác là liệu hợp tác chặt chẽ giữa bác sĩ gia đình hay bác sĩ ngoại chẩn với bác sĩ "hospitalist" điều trị bệnh nhân trong bệnh viện có thể là con đường duy nhất giúp người dân được hưởng một nền y tế tốt đẹp nhất"

Tưởng cũng nên biết là khi xưa ở Việt <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />Nam, phần lớn các bác sĩ mở phòng mạch khám bệnh ngoại chẩn. Một số bác sĩ vừa làm việc trong nhà thương vừa khám bệnh phòng mạch tư. Một số ít giáo sư Đại Học Y Khoa chỉ dậy học và điều trị bệnh trong nhà thương, không khám bệnh phòng mạch tư. Nghĩa là cũng đã manh nha có một mô hình bán thời gian bác sĩ hospitalist ngày nay vậy.

Bs Nguyễn Tài Mai, Chuyên Khoa bệnh Máu và Ung Thư (trong diễn đàn y sĩ) bàn về vấn đề "hospitalist" đăng trong báo Y Khoa New Eng J. Med, tháng 3, 2009 cho biết chương trình "hospitalist" là một chiều hướng đáng ngại cho khoa Nội thương và Bác sĩ Gia đình ở Hoa Kỳ. Cách đây 20 năm, có lẽ không ai trong khoa nội thương có thể ngờ được sẽ có một ngày bác sĩ chuyên khoa nội thương sẽ không vào nhà thương chữa bệnh nữa, mà chỉ ngồi ở phòng mạch, chữa những bệnh "nhẹ" hơn...

Các tác giả trong báo NEJM cũng không dám đả động đến những vấn đề khó nói, khó viết trên giấy trắng mực đen, và có những vấn đề chưa thể đo được bằng xác suất…và chưa thấy ai nói đến sự thất vọng cuả bệnh nhân, khi biết rằng y sĩ điều trị của mình trong suốt 20 năm qua, nay không vào nhà thương để lo cho mình nữa, chính ngay trong lúc mình đang gần đất xa trời . Bs Mai đặt dấu hỏi: Có ai làm được xác suất đó"

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô. E-mail: nmtran@hotmail.com. Xin mời quý độc giả ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Tim đập liên hồi.” “Bồn chồn trong dạ.” “Tim muốn rớt ra ngoài.” “Nẫu ruột.” Đây là những cụm từ được nhiều người sử dụng để mô tả nỗi sợ hãi và lo âu. Thường thì chúng ta có thể cảm thấy được những cảm giác lo lắng, sợ hãi ở lồng ngực hoặc trong bụng chứ không phải ở não. Nhiều nền văn hóa có truyền thống gắn liền sự hèn nhát và dũng cảm với hình ảnh trái tim hoặc lòng dạ hơn là với bộ não.
Bệnh gan đang trở nên phổ biến hơn ở các nước phương Tây. Tại Thụy Điển, ước tính có khoảng một triệu người mắc bệnh gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ, đúng như tên gọi có nghĩa là gan tích tụ mỡ, không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Vì vậy, hầu hết người bịnh không biết rằng họ có chất béo tích tụ, mà ở một số người cuối cùng có thể phát triển thành xơ gan và ung thư gan. Một nghiên cứu ở Thụy Điển cho thấy số người mắc bịnh gan nhiễm mỡ ngày càng gia tăng.
Nhà sinh lý học vĩ đại người Pháp Claude Bernard đã phát triển khái niệm về nội môi (le milieu intérieur, tiếng Anh là the internal environment, tạm hiểu là môi trường bên trong cơ thể): môi trường chất lỏng được điều tiết tinh tế bao quanh các tế bào, chảy qua các động mạch và tĩnh mạch, thấm vào tất cả các cơ và dây thần kinh, cơ quan và xương trong cơ thể chúng ta. Hai trái thận phải làm khá nhiều việc để duy trì trạng thái cân bằng cho môi trường chất lỏng này, hay còn gọi là “cân bằng nội môi” (homeostasis). Chúng loại bỏ nhiều chất với nhiều kích thước khác nhau ra khỏi máu. Các chất này là phụ phẩm khi cơ thể tạo ra và đốt cháy năng lượng, và sẽ trở nên độc hại nếu tích tụ quá nhiều. (Gan thì trực tiếp loại bỏ các hóa chất khác ngay sau khi tiêu hóa, như rượu và ma túy, trong khi ruột, phổi và da thì thực hiện các chức năng bài tiết bổ sung.)
Thương hiệu số một trên thế giới, CheongKwanJang, hòa nhập với xu hướng Thực Phẩm Dược Tính toàn cầu, đã thông báo về sự hợp tác với chuỗi nhà hàng Kabuki của Nhóm Kaizen Dining. Sự hợp tác này, kết hợp truyền thống 120 năm và lợi ích sức khỏe của CheongKwanJang với ẩm thực Nhật Bản quen thuộc đối với người Mỹ, đã được tiết lộ tại một sự kiện diễn ra vào ngày 6 tháng 9 tại nhà hàng chính của Kabuki Huntington Beach. Tiến sĩ Lee Yun-beom, CEO của CheongKwanJang tại trụ sở Hoa Kỳ, đã tuyên bố: "Hồng Sâm Hàn Quốc, được biết đến khoa học với tên gọi Panax Ginseng C.A. Meyer, khác biệt với các loại sâm được tìm thấy tại Hoa Kỳ hoặc các khu vực khác; Nó đã được xác minh khoa học thông qua hơn 450 nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ."
Năm ngoái, các bác sĩ tại một bệnh viện ở Canberra đã sốc tới lặng người khi gắp một con giun sống ra khỏi não một phụ nữ. Trước đó, nữ bệnh nhân này phải vào bệnh viện với các triệu chứng như bị đau dạ dày, ho khan, đổ mồ hôi đêm trong hàng tháng trời, sau đó thì bà bị trầm cảm và hay quên. Bệnh nhân đã được chỉ định đi scan não.
Người ta thường nói rằng tất cả chúng ta rồi sẽ trở nên mất trí nhớ - trừ khi chết vì ung thư hoặc bệnh tim mạch. Tất nhiên, có những người chết vì các bệnh khác, tai nạn hoặc tự tử. Nhưng chính chứng mất trí nhớ, ung thư và bệnh tim mạch lại chiếm ưu thế trong danh sách về nguyên nhân tử vong. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh tim mạch đã tiến bộ và tỷ lệ sống sót hiện nay cao hơn nhiều. Ung thư đã từ một bản án tử hình trở thành một căn bệnh có thể điều trị được - mặc dù vẫn có những biến thể mà tỷ lệ tử vong gần một trăm phần trăm.
Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy điển đã tìm ra một phương pháp để có thể phát hiện sớm các bệnh nghiêm trọng trong não, chẳng hạn như bệnh Parkinson, bằng cách thử dịch tủy sống sau lưng. Và họ cho biết rằng dấu hiệu ban đầu của bệnh là giảm khứu giác, tin từ Đài truyền hình Thụy điển. Tại Phòng khám Trí nhớ ở thành phố Malmö, Thụy điển, các bác sĩ lấy dịch tủy sống từ những người tình nguyện tham gia nghiên cứu bằng một cây kim vào giữa hai đốt ở cột sống, qua thử nghiệm đó các nhà nghiên cứu biết người đó có khả năng mang chứng bịnh thể Lewy* không? Các chứng bịnh thể Lewy là thuật ngữ chung cho bệnh Parkinson và chứng mất trí nhớ thể Lewy, hay còn gọi là sa sút trí tuệ Lewy.
Theo tờ Smithsonianmag, trong một cuộc phẫu thuật thử nghiệm đột phá, các khoa học gia đã điều trị cho bốn bệnh nhân bị thương nặng ở một mắt bằng cách cấy ghép tế bào gốc từ mắt còn lại. Ula Jurkunas, bác sĩ nhãn khoa tại Massachusetts Eye and Ear và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu mới, cho biết: “Báo cáo từng trường hợp cụ thể về bốn bệnh nhân cho thấy một số thông số đã có sự cải thiện, đồng thời cơn đau cũng như các triệu chứng khó chịu đều có giảm bớt.”
Các bác sĩ tại NYU Langone Health trong tuần qua cho biết ca ghép thận heo (đã biến đổi gen) cho một người đàn ông (đã chết não) thành công và thận vẫn tiếp tục hoạt động sau 32 ngày, tờ Washington Post đưa tin. Đây là một bước tiến lớn tới khả năng cấy ghép dị chủng. Theo báo cáo, trong vài phút đầu tiên sau khi được cấy ghép, trái thận không bị cơ thể người nhận đào thải – điều này thường là một vấn đề lớn trong cấy ghép dị chủng (sử dụng cơ quan từ loài khác để cấy ghép). Trái thận đã bắt đầu sản xuất nước tiểu và đảm nhận các chức năng của thận người như đào thải các chất độc.
Nếu thuở nhỏ quý vị từng bị rầy la vì vụ đọc sách, truyện trong bóng tối hoặc nếu có xài mắt kính chặn ánh sáng xanh khi làm việc trên máy tính, thì có thể quý vị chưa hiểu đúng về sức khỏe của mắt. Theo Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bịnh (CDC), ở Hoa Kỳ cứ 10 người trưởng thành thì có khoảng 4 người có nguy cơ cao bị suy giảm thị lực. Bác sĩ Joshua Ehrlich, giảng sư về nhãn khoa và khoa học thị giác tại Trường Michigan cho biết, có nhiều bịnh về mắt có thể điều trị hoặc phòng ngừa được. Và sau đây là một số niềm tin phổ biến của mọi người về thị lực và những nhận xét của các chuyên gia.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.