Hôm nay,  

Chất Béo Và ‘cholesterol’

21/06/201000:00:00(Xem: 12446)

Chất Béo Và ‘Cholesterol’

Các loại dầu olive.


Chu Tất Tiến
(Phỏng dịch từ “Harvard School of Public Health”)


"Ăn kiêng các món có ít chất béo và ít chất cholesterol". Hầu như ai cũng nghe thấy quá nhiều lời đề nghị này trong suốt hai thập niên qua khiến cho đôi khi chúng ta cũng mơ thấy trong giấc ngủ luôn. Đây là phương pháp được xem như tốt nhất để giảm cân và phòng ngừa ung thư cũng như các bệnh tim mạch, cho nên không ngạc nhiên lắm khi thấy gần như cả nước và những nhà sản xuất thực phẩm đều nhảy vào vòng chiến với chất béo.
Tuy nhiên, điều không may là câu châm ngôn đơn giản này bây giờ đã trở thành lỗi thời rồi. Những cuộc nghiên cứu - phần lớn là được thực hiện ở trường Havard cho thấy rằng không phải cứ là chất béo thì có liên hệ đến các bệnh tim mạch. Điểm chính yếu cần quan tâm là loại chất béo nào trong việc ăn kiêng. Một nghiên cứu mới rất dài và bao quát, "Thử Thách Trong Sự Thay Đổi Việc Ăn Kiêng với Sức Khỏe của Người Phụ Nữ " cho thấy ăn kiêng bằng những đồ ăn có ít chất béo trong 8 năm cũng không ngăn ngừa được bệnh tim mạch, ung thư vú, ung thư cuối ruột già, và cũng không giúp gì nhiều cho việc giảm cân.
Điều mà càng ngày càng thấy rõ rằng những chất béo xấu, như "saturated" và "trans fats", làm tăng nguy cơ mắc những căn bệnh trên, trong khi chất béo tốt, như "monounsaturated" và polyunsaturated" làm giảm nguy cơ bị bệnh. Vậy, chìa khóa giải đáp cho vấn đề này là thay các chất béo xấu bằng các chất béo tốt.
"Cholesterol" trong thực phẩm ư" Mặc dầu việc giới hạn lượng "cholesterol" trong ăn uống là điều rất quan trọng, đặc biệt với người bị tiểu đường, các chất "cholesterol" ăn kiêng không hẳn là yếu tố tệ hại như chúng vẫn thường bị lên án. "Cholesterol" trong máu là điều rất quan trọng. Có lượng "cholesterol" cao trong máu làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch lên rất nhiều. Nhưng những người bình thường thì tạo ra khoảng 75% chất "blood cholesterol" từ lá gan của họ, trong khi chỉ có 25% được hấp thụ qua thực phẩm. Ảnh hưởng quan trọng nhất về lượng "cholesterol" là sự trộn lẫn các chất béo trong việc ăn kiêng.
1-Chất béo "Monosaturated" (dầu Ôlivơ, trái Ôlivơ, dầu Canôla, dầu đậu phọng, đào lộn hột, đậu phọng, và hầu hết các loại hột, và trái bơ), được trữ dưới dạng nước: làm giảm chất béo xấu, tăng chất béo tốt cho cơ thể.
2-Chất béo "Polyunsaturated" (bắp, đậu nành, các cây cho mầu đỏ, dầu hạt trái bông gòn, cá) được trữ dưới dạng nước: làm giảm chất béo xấu, tăng chất béo tốt.
3-Chất béo "Saturated" (sữa nguyên, phô mai, kem, thịt có mầu đỏ, chôcôlát, dừa, nước dừa, dầu dừa) dưới dạng cứng: làm tăng cả chất béo tốt và chất béo xấu.
4-Chất béo "Trans" (hầu hết các loại Margarine, các chất bơ rau cải, các loại dầu rau cải đã biến thể "hydrogenated", các món ăn chiên nhanh, các đồ ăn béo, hầu hết các loại thực phẩm thương mại (1) bán ngoài chợ) dưới dạng cứng hay mềm: làm tăng chất béo xấu.
5-"Margarine” và Bơ.
Trong nhiều năm, "Margarine" từng được coi như là chất thế chỗ cho Bơ để giữ cho quả tim được khỏe mạnh. Bơ được biết đến như là chất có đầy "cholesterol" và "saturated fat", những chất làm hại cho "blood cholesterol" và tăng nguy cơ các bệnh tim mạch. Trong khi đó, "Margarine" được làm từ dầu rau cải đã "unsaturated", cho nên chất này được người ta nghĩ là tốt hơn cho quả tim.
Rất không may là những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng điều đó chưa hẳn đúng. Vài loại "margarine", nhất là loại "Margarine" dưới dạng cứng thì còn tệ hơn là bơ nữa. Lý do đơn giản là chúng chứa quá nhiều lượng "trans fat".


Nghiên cứu của "Nurses' Health Study" tìm thấy rằng nếu phụ nữ ăn 4 thìa canh của loại Margarine cứng này có 50% nguy cơ bị bệnh tim mạch hơn là những phụ nữ chỉ ăn "margarine" thường. Bởi vậy, theo bạn, bạn chọn loại nào" Tốt nhất là nên dùng nhiều dầu rau cải hay là "Margarine" mềm không có "Trans fat" hoặc không bị "hydrogenated". Nếu bạn chọn "Margarine mềm", nên chú ý là chỉ chứa rất ít "saturated fat" mà thôi.
6-Để đạt được và giữ độ "Cholesterol" thích đáng.
Bạn có thể làm giảm độ "cholesterol" và những nguy hiểm về tim mạch bằng cách tập thể dục đều đặn, giữ cân lượng của cơ thể vưà đủ khoẻ mạnh, tăng cường chất sợi trong rau cải khi ăn kiêng, ăn tối thiểu các chất "trans fat", giới hạn "saturated fat", và thay thế chúng bằng các chất "unsaturated fat". Đi khám bác sĩ thường lệ cũng là một phương pháp quan trọng. Người lớn cần phải kiểm soát lượng "cholesterol" ít nhất cũng một lần trong năm năm. Nếu bạn có lý do nghi ngờ bạn có nguy cơ bị bệnh tim mạch vì gia đình bạn có nguòi có tiền sử về lượng "cholesterol" trong máu khá cao, thì bạn phải đi kiểm tra thường hơn nữa.
Trường hợp bạn không thể tự mình làm giảm lượng "cholesterol" đến mức an toàn mặc dầu bạn ăn kiêng và tập thể dục, bạn nên tìm đến bác sĩ để được ghi toa thuốc làm giảm lượng "cholesterol" trong cơ thể.
Các chất béo ăn kiêng, chất "cholesterol" ăn kiêng, và mức "cholesterol" trong máu.
Một trong vấn đề chủ chốt quan trọng của lượng "cholesterol" trong máu là vài chất béo trong việc ăn kiêng, không phải toàn bộ các chất béo, như đã nói ở trên, mà là các chất béo đặc biệt. Có chất béo lại rất tốt trong việc giữ lượng "cholesterol" trong máu trong khi có chất béo khác lại làm hại cho cơ thể.
7-"Cholesterol" trong thực phẩm.
Trong khi người ta hay nghĩ rằng lượng "cholesterol" cao trong cơ thể liên can đến bệnh tim mạch, một số nghiên cứu cho rằng chỉ có một liên hệ rất yếu giữa số lượng "cholesterol" mà người ta ăn vào và lượng "cholesterol" trong máu hoặc là với nguy hiểm của bệnh tim mạch. Với vài người có lượng "cholesterol" cao, việc giảm lượng "cholesterol" trong việc ăn kiêng có một ảnh hưởng nhỏ nhưng rất quan trọng trên lượng "cholesterol" trong máu. Đối với những người khác, lượng "cholesterol" ăn vào có rất ít ảnh hưởng trên số lượng "cholesterol" lưu thông trong máu.
Trong một cuộc nghiên cứu trên 80,000 nữ y tá, những nhà nghiên cứu của trường Havard thấy rằng nếu ăn vào 200 mg cho mỗi 1000 calories trong việc ăn kiêng (vào cỡ một quả trứng một ngày) không có tăng nguy cơ tim mạch.
Với một số nhà khoa học và bác sĩ, trứng đã trở lại vị trí tốt đẹp. Những khảo cứu mới đây tại Havard thấy rằng một lượng trứng vừa đủ- một quả một ngày - không làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch. Trong khi thực tế cho thấy lòng đỏ trứng chứa rất nhiều "cholesterol" làm ảnh hưởng đến lượng "cholesterol" trong máu, nhưng ngược lại, trứng cũng chứa nhiều chất bổ dưỡng làm giảm đi nguy cơ bệnh tim mạch, bao gồm các chất "protêin", sinh tố B 12 và D, "riboflavin" và chất "folate." Cho nên, nếu ăn điều độ, trứng lại có thể là một món ăn kiêng tốt. Với những người có bệnh tiểu đường, thì phải giới hạn không ăn nhiều hơn 2 hoặc 3 trứng một tuần, vì theo Nurses' Health Study, nếu ăn đều mỗi ngày một quả có nguy cơ bị bệnh tim mạch. Tương tự như thế, những ai không thể kiểm soát được lượng "cholesterol" trong máu cũng phải hạn chế ăn trứng và hãy chọn những thức ăn nào làm bằng lòng trắng trứng nhiều hơn.
Ghi chú: Một lớp Chuyển Luân Công (gồm Thiền Yoga, Khí Công, Tài Chi, Chuyển Luân Công) miễn phí được tổ chức mỗi chiều Thứ Năm từ 6 giờ 15 đến 7 giờ 15, để giúp trị rất hiệu quả một số bệnh về đau nhức, tim, mạch, động kinh, hậu “stroke”, thần kinh, hay hồi hộp, lo sợ, và mất ngủ. Xin liên lạc: 714-398-3678.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập đoàn Nhân sâm Hàn Quốc tại Hoa Kì (KGCUS), nơi sản xuất thương hiệu nhân sâm số một thế giới CheongKwanJang, tự hào giới thiệu thức uống thảo dược có ga HSW kết hợp hồng sâm 6 năm tuổi, tới các khách hàng quan tâm đến sức khỏe tại WaBa Grill, một trong những chuỗi nhà hàng hàng đầu chuyên phục vụ món cơm lành mạnh
Thỉnh thoảng chúng ta mới thấy một thứ thuốc mới làm chấn động không những giới y tế mà còn làm chấn động thị trường kinh tế thế giới. Thí dụ trước đây là thuốc phục vụ trong những nhu cầu căn bản và mạnh mẻ nhất của con người, Viagra, thuốc giúp chữa chứng rối loạn cương cứng (ED) của nam giới, do Pfizer phát triển, đã có tác động kinh tế đáng kể đến ngành dược phẩm kể từ khi được FDA phê duyệt vào năm 1998. Viagra là loại thuốc mang lại lợi nhuận cao cho Pfizer, doanh thu toàn cầu khoảng 1,6 tỷ USD trong năm 2016 mặc dù đã có thuốc generic rẻ tiền hơn nhiều.
Ung thư khởi phát khi các tế bào tích tụ những tổn hại đủ để thay đổi hành vi bình thường của chúng. Khả năng tích tụ tổn hại tăng theo độ tuổi vì các biện pháp bảo vệ trong mã di truyền, nhằm đảm bảo các tế bào hoạt động vì lợi ích tối ưu của cơ thể, sẽ suy yếu theo thời gian. Vậy thì tại sao những đứa trẻ chưa có đủ thời gian để các tế bào tích tụ tổn hại lại có thể mắc bệnh ung thư? Nếu nhìn qua lăng kính tiến hóa, ung thư phát triển từ sự ‘bất hợp tác’ của tế bào, vốn ban đầu các tế bào sẽ cùng kết hợp với nhau và hoạt động như một cơ quan. Ở trẻ em, các tế bào vẫn đang học cách hợp tác. Ung thư ở trẻ em khởi phát khi xuất hiện các tế bào ‘nổi loạn’ không chịu hợp tác và cứ phát triển bất chấp, gây tổn hại cho cơ thể.
Bộ não con người có thể thay đổi – nhưng thường với nỗ lực rất lớn và diễn ra từ từ, chẳng hạn như khi chúng ta học một môn thể thao hoặc ngoại ngữ mới, hoặc hồi phục sau cơn đột quỵ. Học các kỹ năng mới có tương quan với những thay đổi trong não; điều này đã được nghiên cứu khoa học thần kinh với động vật và quét não chức năng ở người chứng minh. Có lẽ, nếu quý vị thành thạo Giải tích 1 (Calculus 1), thì trong não quý vị sẽ có điều gì đó khác một chút. Các tế bào thần kinh vận động trong não mở rộng và co lại tùy thuộc vào tần suất chúng được vận động – một sự phản ánh của tế bào thần kinh về việc “xài hoặc mất” (use it or lose it).
Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Hội đồng Nobel tại Viện Karolinska đã quyết định trao giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học năm 2023 cho hai khoa học gia người Mỹ Katalin Karikó (gốc Hungary) và Drew Weissman hôm nay ngày 2 tháng 10, 2023, vì những khám phá của họ liên quan đến việc biến đổi base của các nucleoside (nucleoside base modifications) cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
Trung tâm kiểm soát bệnh Hoa Kỳ CDC vừa đưa ra các khuyến nghị về thuốc chủng ngừa Covid cho mùa thu này sau khi thuốc được Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Thuốc (FDA) của Hoa Kỳ chuẩn thuận hôm thứ hai, ngày 12 tháng 9, 2023. Sau đại dịch Covid mấy năm vừa qua, kiến thức của quần chúng về các bệnh nhiễm, các thuốc chủng ngừa (vắc xin) đã tăng lên nhiều, cũng như óc phê phán và sự nghi ngờ đối với các biện pháp y tế hay phòng ngừa do chính quyền hay các cơ quan như CDC đề xướng, lắm khi gắn liền với lập trường chính trị của mỗi người, có khi tuỳ theo tiểu bang. Bài sau đây chỉ có tính cách thông tin, dựa trên những nguồn tin tức mà người viết nghĩ là đáng tin cậy. Độc giả cần tham khảo với người săn sóc y tế cho mình để đi tới quyết định có nên dùng vắc xin nào hay không. Sau đây là những điểm chính của các thông báo của CDC cho báo chí, kèm theo chú thích để bàn thêm
Vitamin D là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho sức khỏe. Nó giúp xây dựng và duy trì xương chắc khỏe, đồng thời hỗ trợ chức năng cơ bắp và miễn dịch. Nhưng hầu hết mọi người trên thế giới đều bị thiếu vitamin D, khiến cho nó trở thành loại supplement phổ biến nhất trên thị trường
Lập một kế hoạch điều trị trầm cảm có thể là một thách thức khó khăn. Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị thông thường và đang trải qua các liệu pháp thử nghiệm như kích thích các nhân sâu trong não (Deep Brain Stimulation – DBS). Đối với hầu hết các tình trạng bệnh lý, bác sĩ có thể trực tiếp đo lường bộ phận đang được điều trị, chẳng hạn như đo huyết áp đối với các bệnh về tim mạch. Những thay đổi có thể đo lường đóng vai trò là dấu ấn sinh học khách quan (objective biomarker) của quá trình phục hồi, cung cấp các thông tin đáng giá về cách chăm sóc bệnh nhân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.