Theo nghệ sĩ Ngụy Vũ, người tổ chức giải thi, có tất cả 10 người viết trúng giải chọn từ các bài gửi từ khắp tiểu bang về dự.
Với truyện “Tre Già Măng Non,” ông Lê Văn đã thắng Giải Nhất với 1,500 đô tiền mặt.
Ngoài các giaỉ khác, còn có thêm 200 phần quà tặng trao cho các đồng hương tới tham dự sớm nhất.
Dưới đây là bài diễn văn cảm động của ông Chánh Án Nguyễn Trọng Nho trong "Ngày Thuyền Nhân Việt Nam" 4 tháng 4 năm 2004 tại Little Sàigòn.
Kính thưa quí vị.
Trước hết tôi cảm ơn Ngụy vũ và quí vị trong ban tổ chức đã tha thiết mời tôi tới tham dự buổi họp mặt hôm nay.
Sau 1975 chúng tôi thường dẫn các con cùng vài người bạn ra biển. Trên bờ biển tôi nhìn về chân trời xa, nói với lòng mình và với các con rằng bên kia của sóng nước này là quê hương ta đó. Ở nơi đó tôi đã lớn lên và đã nuôi bao ước mơ. Tôi đã ước mơ xây dựng đất nước mình trở thành thịnh vượng. Tôi đã ước mơ sẽ được đi từ Nam ra Bắc mà không nghe thấy tiếng đạn bom, và chỉ nhìn thấy những nụ cười, và nghe thấy những lời chào mừng hoan lạc. Tôi và bạn bè đã chia xẻ những ước mơ đó cùng con cái mình.
Khi hành trình biển đông bắt đầu, chúng tôi đã đưa nhau ra bờ biển, để nhìn sóng nước và cảm nhận đến nỗi đớn đau của đồng bào mình trên biển.
Nhìn sóng nước bờ bên này của Thái Bình Dương, chúng tôi tự nhủ sao biển tên hiền hòa như vậy mà lại đang gây nên bao bão tố cho đồng bào ruột thịt. Đứng trên bờ biển ở Santa Monica, nhìn xuống mặt nước thật xa phía chân đồi, những đợt sóng của biển đều đặn nhịp nhàng và liên tục đang đem lại hạnh phúc cho những người du ngoạn, nhưng tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh của những con thuyền đang vùi dập trong bão tố. Bước trên cát trong tiếng sóng vỗ chúng tôi nghe như tiếng rơi của nước mắt đau thương của đồng bào mình đang trùm ngập cả đại dương.
Những giấy mực, ngôn từ đã trở thành vô nghĩa trước những khổ đau vĩ đại của thuyền nhân Việt Nam tị nạn cộng sản. Mỗi con người, trẻ, già, lớn, bé, mỗi trẻ thơ, mỗi người mẹ người cha, mỗi thanh niên thiếu nữ, mỗi người chồng người vợ trong hành trình biển đông đã tự họ là một thiên trường ca vừa bi phẫn vừa hùng tráng. Vâng, nếu thế chiến thứ hai đã sáng tạo ra những đại tác phẩm như "La Vintcinqiueme heure" ("Giờ Thứ 25") của Constantine Virgil Georghiu, thì những người Việt trên biển đông đã viết lên hàng trăm ngàn tác phẩm tuyệt tác không kém về nỗi đớn đau của con người trong cuộc tìm kiếm một đời sống an bình trong Tự Do. Thực vậy, đời sống của mỗi thuyền nhân Việt Nam chính là một đại tác phẩm "La Vintcinqiueme heure."
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, những người Việt đã bỏ xứ ra đi, không phải để khai phá đất đai, mở mang bờ cõi như tiền nhân đã làm trong cuộc Nam tiến.
Lần này họ đã ra đi lũ lượt không phải chỉ cho họ mà là cho cả nhân loại. Họ đã tự mang lấy tất cả những đớn đau trên chính thân mạng mình, để chỉ bầy cho thế giới biết ý nghĩa của Tự Do.
Chúng tôi những người đi trước đã trở thành gần như hoàn toàn bất lực trước những oan khiên ngút ngàn và bi thương không cùng của họ. Những cuộc biểu tình tuyệt thực của những người đi trước, trong đó có chúng tôi, trước các tòa lãnh sự của Thái Lan tại Los Angeles hay Washington D.C., những đêm không ngủ ngồi trước Liên Hiệp Quốc hay các sứ quán Thái Lan, những lời hô hào, và những khẩu hiệu của chúng ta, chúng ta đã làm với tất cả tâm tình và đau xót của mình.
Nhưng tất cả những nỗ lực đó của chúng ta đã thật nhỏ nhoi không đáng kể trước những đau thương không cùng, và những oan trái ngút ngàn của đồng bào mình trên biển đông.
Nhìn sóng nước của Thái Bình Dương vỗ về nhau cùng hẹn hò tại bờ cát chúng ta đã cùng cầu xin Trời Phật hãy làm giảm đi những khổ đau vô vàn của đồng bào, hãy cho những người cầm quyền tại Việt Nam nhìn ra những lỗi lầm khủng khiếp của họ, cho chính phủ các nước láng giềng ra tay cứu độ đồng bào chúng ta, và cho nhân loại hãy tỉnh giấc để lắng nghe thông điệp mà đồng bào thân yêu của chúng ta đang gửi đi.
Có lúc, trong niềm cảm kích về những đau thương và hy sinh của đồng bàọ, tôi đã nghĩ, phải chăng họ đã là hiện thân của tinh thần cứu thế vô cùng cao cả của Đức Jesus Kitô, khi ngài chịu nhận lấy những đau đớn trên chính thân mạng mình để từ đó một thông điệp của giá trị của Tự Do và nhân ái được gửi đi cho nhân loại. Hay họ đã là hiện thân của tinh thần Bồ Tát, đem chính thân xác mình đi vào chốn địa ngục khổ đau để từ đó chúng sanh được cứu vớt.
Những thuyền nhân đồng bào tôi là những người anh hùng vô danh đầy quả cảm và hy sinh. Trong một thế giới đang ngắm nhìn lá cờ "giải phóng" phất phới trên bầu trời Sàigòn để khiếp sợ chiến thắng vẻ vang của cộng sản, thì những người Việt thuyền nhân lạïi lăïng lẽ ra đi. Đau thương chết chóc chẳng làm sút giảm sự can trường của họ. Trái lại chỉ làm tăng lên giá trị bất hủ của thông điêp họ đang gửi đi. Họ chính là chứng nhân của câu nói bất hủ của Patrick Henry "Give Me Liberty or Give Me D eath" "Hãy trả cho tôi Tự Do hay là cho tôi chết" Họ là những Patrick Henry của Việt Nam và của nhân loại trong thời đại của chúng ta.
Những chiếc thuyền mong manh bé nhỏ của họ lênh đênh trên biển đông đã làm tôi nghĩ đến hình ảnh của Paul Revere, trên lưng ngựa cùng chiếc loa, rong ruổi trên đường làng các tiểu bang xứ thuộc địa của Anh quốc hơn hai trăm năm trước đây để thức giấc những người dân thuộc địa thời đó.
Trong nỗi bất lực trước những đau thương khôn cùng của đồng bào thuyền nhân, cảm nhận thấy lương tâm nhân loại đã mệt mỏi, và sự đớn đau của đồng bào trong các trại tị nạn, chúng tôi và một số anh em bạn hữu đã tổ chức ra Việt Nam Foundation. Chúng tôi đã giúp bảo trợ cho trên 1000 đồng bào không có thân nhân tới định cư tại Cali. Trong số này có những người trong cuộc đời chưa bao giờ cầm cây viết trên tay. Chúng tôi vừa đi làm vừa đi đón đồng bào tị nạn từ các sân bay về tới nơi tạm trú, vừa lo lắng giấy tờ, chỉ dẫn cho đồng bào cách ký tên, đánh vần và viết tên của mình. Ban ngày đi làm. Buổi chiều và ban đêm là thì giờ cho đồng bào tị nạn. Các bạn bè, anh em và vợ chồng chúng tôi đã cùng chia xẻ những công việc này. Những nhọc nhằn đã được bù đắp lớn lao bằng niềm vui chúng tôi có được. Vàø chúng tôi đã có một gia đình với hàng ngàn người thân.
Và nhờ đó, chúng tôi, cũng như quí vị qua những kinh nghiệm tương tự, đều thấy họ không phải chỉ là anh hùng lúc đó. Họ đã chiến thắng nghịch cảnh cho chính họ và cho tất cả chúng ta.
Những thuyền nhân Việt Nam không chỉ chấp nhận đau khổ. Họ đã chiến thắng và vượt qua đau khổ. Họ đã tíếp tục chiến thắng tất cả những khó khăn trong cuộc sống mới tại đây. Ho đã thành công vượt mức. Con cháu của họ, con cháu của chúng ta, đã thành công vẻ vang tại đây để đem cho chúng ta niềm tự hào về họ, và về cộng đồng chúng ta
Thế nhưng, lòng can đảm của họ không phải chỉ ngừng ở đó. Họ đã viết ra cho chúng ta và để lại cho lịch sử đời này và bao đời sau những kinh nghiệmï đau thương của họ. Khi viết ra những gian truân đắng cay của họ, họ đã thực sự cho phép chúng ta, tất cả chúng ta, cùng chia xẻ với họ. Họ đã trao cho chúng ta một quà tặng quí giá. Họ đã cho tất cả chung ta được cùng là thuyền nhân như họ. Đọc tác phẩm Hành Trình Biển Đông, chúng ta sẽ không chỉ thấy sự thống khổ oan nghiệt cao như trời và mênh mông như biển của người Việt tị nạn, nhưng chúng ta cũng sẽ thấy ở ngay trong nghịch cảnh đó vẫn luôn le lói những nỗi niềm hy vọng được nuôi sống bằng tinh thần can trường tuyệt diệu và tình đồng bào ruột thịt cao quí của thuyền nhân Việt Nam. Từ đó tất cả chúng ta sẽ cảm nhận được quá khứ bằng máu và nước mắùt của thuyền nhân Việt Nam. Trong sự cảm nhận đó, chúng ta sẽ có thể tìm thấy nhau trong mỗi tấm lòng mình còn tha thiết đến tương lai của con cháu, tha thiết đến tương lai của dân tộc, và để cùng ước mong có ngày mà hận thù không che mờ lương tri của con người, mà tình tự dân tộc sẽ là nguồn cảm hứng của đời sống, và để tất cả chúng ta sẽ cùng dìu dắt nhau đưa dân tộc đi về phía trước.
Trong niềm hy vọng đó tôi xin ca ngợi nỗ lực và công đức của các người viết chứng nhân và những cố gắng của Nguyï Vũ. Sự đóng góp đặc biệt và can trường của những người viết chứng nhân và công lao bền bỉ của Ngụy vũ thật là cao quí. Xin hãy mãi gìn giữ sự cao quí đó cho mình và cho tất cả chúng ta.
Nguyễn Trọng Nho