Ni sư Diệu Thiện.
Thầy Thích Thông Hội.
WESTMINSTER (VB) -- Bạn quan tâm về Phật sự? Bạn quan tâm về Thiền? Bạn muốn giúp tạo dựng cơ sở Thiền môn? Bạn có thể góp sức như thế trong một buổi tiệc chay gây quỹ dự kiên tô chức vào tuần lễ đầu năm 2018.
Tiệc chay gây quỹ tạo dựng hội trường Trung Tâm Giác Ngộ - Thiền Viện Phổ Môn (Texas), sẽ tổ chức vào Chủ Nhật 7/1/2018 từ 10:30am-2:00pm tại Grand Garden 8894 Bolsa Ave., Westminster CA 92683.
Yểm trợ và tham dự xin gọi Tuệ Nguyện 714-867-4161, Tâm Phương 714-318-6887, Sư cô Tuệ Đăng 832-986-7895. www.universaldoor.org.
Theo chương trình sẽ có 2 vị Thiền sư từ Texas sang tham dự cho buổi tiệc chay này: Sư Cô Diệu Thiện, Thầy Thích Thông Hội. Sau đây là thông tin từ hai vị, theo trang www.universaldoor.org .
Vài nét về Sư Cô Diệu Thiện
Sư Cô Diệu Thiện, thế danh Diệu Thiện, họ Nguyễn, gốc Huế, vì chiến cuộc đưa đẩy, cha cô thuyên chuyển công tác về Quảng Ngãi, vài năm sau, năm 1971, cô chào đời trên miền đất Quảng này.
Ngay từ ấu thơ, cô đã không vui vẻ, hồn nhiên như bao đứa trẻ khác, dường như có gì trĩu nặng trong nội tâm, khiến cô không làm sao hòa nhập vào nhịp sống gia đình và đùa vui cùng chúng bạn. Những cảnh đời biến đổi, thăng trầm đã ảnh hưởng vào tâm hồn cô bé mang tên Diệu Thiện. Cha mẹ cô là những Phật tử thuần thành nên từ nhỏ, cô được theo cha mẹ đến chùa, nhưng đời sống nội tâm cô, vẫn không thay đổi, cô không làm sao vui nỗi.
Sau đó, năm 1984, cô 13 tuổi, gia đình cô rời Quảng Ngãi vô Phú Cường, một vùng kinh tế mới thuộc Đồng Nai. Nơi đây, cô vào gia đình Phật tử, có dịp được học hỏi giáo lý và cô rất ham thích khi biết rõ cuộc đời Phật Thích Ca, từ trong nếp sống sang cả của một ông Hoàng, Ngài đã nặng mang niềm khổ đau sinh tử để cuộn thành nỗi trăn trở khôn nguôi. Cuối cùng, ngay dưới cội Bồ Đề, Ngài đã tháo tung những sợi dây trói buộc, soi thấu bóng tối mê lầm, câu hỏi lớn tử sinh đã có câu trả lời. Ngài dứt khổ, giải thoát.
Nỗi trăn trở về khổ sinh tử trong cô, giờ đây hình thành đậm nét, nhưng cô, tuổi còn quá nhỏ để biết mình phải làm gì. Tình cờ, trong một buổi trai tăng ở một ngôi chùa, phong thái an nhiên tự tại của một Ni Sư cuốn hút cô, từ đó, cô đã định hướng đi cho đời mình. Cô biết mình phải làm gì để tìm câu trả lời cho sự thao thức lớn ấy. Những tháng ngày sau đó, cô thường lên Thiền tự gần gũi với Ni Sư và kính làm thầy mình, đến một hôm, cô mạnh dạn xin cha mẹ và thầy cho cô xuất gia. Mọi người đều nghĩ, đó là quyết định bồng bột của trẻ con, nên đều từ chối, hẹn rằng, khi nào đến 18 tuổi, học xong cấp 3, nếu còn giữ ý định ấy, sẽ cho cô toại nguyện. Trong thời gian này, cô vẫn thường lên Thiền tự với Ni Sư, vì cảnh đời, gia đình, bạn bè, không giữ chân cô được. Vừa xong cắp 3, trước thầy và cha mẹ, cô lập lại lời xin ấy. Thấy con bền chí, cha mẹ gởi gấm cô cho Ni sư. Ngày Tự tứ, mùa Vu Lan năm 1989, cô được xuất gia trong buổi lễ trang nghiêm, có mặt đông đảo tăng ni và hầu hết những người thân thuộc.
Được thầy khuyến khích, Sư Cô thi vào trường Phật Học Ni Viện Thiện Hòa. Trong 4 năm của niên học, Sư Cô đạt nhiều thành tích xuất sắc. Nhưng dù được xuất gia, hằng ngày chuyên cần niệm Phật và 2 thời công phu khuya sớm, nắm vững giáo lý Phật học, Sư Cô vẫn thấy lòng trĩu nặng, niềm trăn trở về nỗi khổ tử sinh cứ lớn dần…
Năm 1994, sau khi tốt nghiệp khóa Phật học, Sư Cô rời Ni viện về lại Thiền Tự, vài tháng sau, Sư Cô đi Mỹ (H.O.) cùng cha mẹ. Gia đình Sư cô sống ở Houston, Texas. Cũng trong năm này, Sư Cô có dịp đi thăm nhiều đạo tràng tu học, nhưng vẫn không có nơi nào giúp được Sư Cô giải quyết những bế tắc trong lòng.
Năm 1995, Sư Cô cùng một Ni Sư khác về chùa Tâm Quang, Michigan, ngoài việc hướng dẫn Phật tử tu học tại chùa và các nơi, Sư Cô đi học Đại học Western Michigan, với sự trợ duyên tận tình của nhiều vị tôn túc.
Cuối năm 2000, Sư Cô tốt nghiệp cao học nhưng nỗi trăn trở vẫn còn canh cánh như đám mây đen phủ kín đời mình, không làm sao thoát ra được. Trong thời gian này, nhờ một va chạm lớn, Sư Cô phát hiện chính những dựng lập làm mình khổ đau. Nhưng sự phát hiện này, không làm sáng tỏ gì hơn. Vẫn hoàn toàn bế tắc. Cuối cùng, Sư Cô không còn muốn học thêm nữa và rời chùa Tâm Quang, ra đi, quyết tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mà từ lâu mình trăn trở, thao thức. Lần này, Sư cô nguyện, sẽ không trở về khi lòng còn bế tắc, mặc dù nhiều người thân cản ngăn vì trên đường xa, nhiều nguy hiểm đang chờ.
Tháng 2, năm 2001, với một va ly nhỏ, chỉ vài bộ quần áo và một ít tiền, cùng một cô sinh viên Mỹ xin theo làm bạn đồng hành, Sư Cô lên đường đi vòng quanh thế giới, với hi vọng, may ra sẽ có người giúp mình giải quyết nỗi trăn trở trong lòng.
Sư Cô đi qua nhiều nước, bằng những phương tiện và ăn uống hạn chế bởi số tiền ít ỏi của mình. Sư Cô cũng dừng chân ở nhiều đạo tràng nổi tiếng của những quốc gia có truyền thống Phật giáo lâu đời, nhưng không nơi nào Sư Cô dừng lâu vì họ cũng chẳng giúp gì cho nội tâm đang bế tắc của mình. Sau cùng, nhân một va chạm lớn ngược hoàn toàn với những cố chấp bấy lâu, trong tận cùng đau khổ của cuộc đi tìm về chính mình, câu hỏi làm Sư cô thao thức, trăn trở bấy lâu đã bùng vỡ; Ni sư tìm ra được cái mà chư Phật, chư Tổ từng khai thị: An lạc giải thoát là gì, ở đâu? khổ đau là gì? vì sao khổ đau có mặt? tôi là gì?...
Từ đó, Sư Cô quay về Houston, hội đủ nhân duyên, Sư Cô lập Thiền Viện Phổ Môn giúp nhiều người tìm về niềm vui lớn sẵn có nơi chính mình bằng con đường khám phá và tháo gỡ những bế tắc của nội tâm, sự khám phá này được ứng dụng trong từng giây phút, ở bất cứ hoàn cảnh nào. Và người bạn đồng hành năm ấy cũng theo Sư Cô về Houston, sau đó, xin xuất gia, hiện tu học ở Thiền Viện Phổ Môn.
Và sau đây là tiểu sử của Thầy Thích Thông Hội.
Thầy Thông Hội sanh trưởng ở Việt Nam, hiện đang ở Dallas, Texas, và là giáo thọ tại Thiền Viện Phổ Môn ở Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Từ thuở thiếu thời, trước cảnh sinh ly, tử biệt của những người thân, Thầy nhận ra niềm vui không trọn vẹn, từ đó hình thành nỗi trăn trở, bức xúc trong Thầy cùng với sự băn khuăn, ray rức về kiếp người trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh, là động cơ đưa Thầy dấn bước tìm con đường dứt khổ, giải thoát.
Thầy Thông Hội sanh năm 1949 tại Phan Thiết, Bình Thuận, Việt Nam, trong một gia đình mà cha và hầu hết anh chị em đều là nhà giáo. Ngay từ nhỏ, thầy đã thích nghiên cứu kinh, luận, nhất là sử về các vị Thiền sư. Thầy lớn dần và những trăn trở, thao thức về kiếp nhân sinh cũng lớn dần trong tâm thức, ngay từ năm đầu của ngưỡng cửa đại học, tâm cầu giải thoát chín muồi, thầy rời bỏ cha mẹ, anh chị em và bạn bè,... ra đi thực hiện hoài bảo của mình.
Ta từ tỉnh giấc mộng dài
Trót đem chí cả vượt ngoài tử sinh.
Xuất gia tại Thiền viện Chơn Không, thuộc Núi Lớn, Vũng Tàu, năm 1973. Trong suốt thời gian ở Thiền viện, thầy tinh chuyên học hỏi, nghiên cứu sâu sắc giáo lý nơi Hòa thượng bổn sư và ứng dụng được lý kinh trong công phu tỉnh tọa cũng như áp dụng trong đời sống hàng ngày. Nhờ đó, thầy càng tin sâu con đường giải thoát, nhưng, nỗi khổ sinh tử vẫn luôn trĩu nặng trong lòng.
Thế rồi, năm 1975, hoàn cảnh đất nước đổi thay, thầy là một trong số những vị tăng trẻ, phải rời Thiền viện Chơn Không, về Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, ban ngày, cuốc đất trồng khoai, trồng đậu, cùng nhau cuốc xới, lao tác trên 50 mẫu cỏ tranh cao lút đầu, đầy rắn rít, bò cạp, nhưng lý tưởng giải thoát vẫn không giây phút nào quên. Sự trăn trở về nỗi khổ của kiếp người vẫn chưa giải quyết, dù nhận ra những phiền khổ có mặt là do những định kiến, những cố chấp của chính mình.
Năm 1979, thầy rời TV Thường Chiếu về Long Xuyên, miền tây, sống cùng những người bạn cùng ở TV Chơn Không ngày trước, trong khoảng thời gian này, những trăn trở, thao thức về nỗi khổ tử sinh càng lúc càng đeo bám. Một hôm, trong cơn bế tắt cùng tột này, thầy chợt nhận ra khuôn mặt thật của chính mình, và rõ ràng, sâu sắc hơn về hệ thống phiền khổ vận hành. Thầy cũng nhận ra, những sự học hỏi nơi sách vở, kinh điển chỉ có ích trong giai đoạn sơ cơ, nhưng nếu bám dính, điều này là trở ngại lớn trên đường giải thoát. Ngay buổi sáng kì diệu này, những lời thơ cứ trào ra ngọn bút... Tuy vậy, kiểm lại, dường như thầy vẫn thấy mình chưa hoàn toàn dứt khổ, giải thoát. Vẫn còn có trở ngại nào đó, trong lòng. Nhân một cơ duyên, thầy sang định cư trên đất Mỹ, dù hoàn cảnh mới lạ, bỡ ngỡ nhiều trong sinh hoạt mới mẻ của xứ người. Động cơ giải thoát vẫn không ngừng thôi thúc để cuối cùng, đang khi tương tác với ngoại cảnh, tâm thức máy động do cái tôi vận hành, câu hỏi lớn về nỗi khổ tử sinh chạm mạnh vào tận cùng tâm thức, trong khoảnh khắc ấy, thầy nhận rõ, do đâu mình khổ, mình thật sự là ai, cái tôi được hình thành và vận hành ra sao trong cuộc sống...
Từ đó, Thầy nguyện dành trọn thời giờ giúp người hiểu về sự vận hành khổ đau nơi chính mình và phát tâm tu học dứt khổ, giải thoát. Những gì Thầy hướng dẫn được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Gửi ý kiến của bạn